Hơn 2500 trước, vào đêm Rằm tháng Hai tại rừng cây Sala, thôn Pava, xứ Câu Thi Na, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết bàn.
Đối với bậc Chánh đẳng giác, các Ngài có thể thị hiện nhập diệt bằng mọi nhân duyên như bay lên hư không, thiền định nhập diệt,... Nhưng đối với Đức Phật Thích Ca, Ngài đã lựa chọn nhập diệt bằng nhân duyên chịu bạo bệnh, sau khi thọ thực bữa ăn cuối cùng có món mộc nhĩ độc do người thợ sắt Cunda (Thuần Đà) cúng dường.
Để tìm hiểu về nhân duyên Đức Thế Tôn chọn nhập diệt theo cách này và lòng từ vô lượng của Ngài, mời quý vị cùng đón đọc bài viết dưới đây!
Mục lục [Hiển thị]
- Thọ nhận bữa ăn cuối cùng có món mộc nhĩ độc tại nhà thợ sắt Cunda
- Bài học Đức Phật để lại qua bữa ăn cuối cùng để hóa độ chúng sinh
- 1. Người cúng dường với tâm thanh tịnh nhận được phước báu nhiều đời
- 2. Người đắc đạo vẫn có thể bị bệnh
- 3. Người làm Thầy luôn nhận hiểm nguy về mình
- 4. Bậc tu đắc đạo luôn có đầy đủ mọi phương tiện làm thanh tịnh tâm của chúng sinh
Thọ nhận bữa ăn cuối cùng có món mộc nhĩ độc tại nhà thợ sắt Cunda
Khi Đức Phật thuyết Pháp trong hội chúng, thợ sắt Cunda nghe Pháp sinh tâm hoan hỷ và ông ta xin được dâng vật thực cúng dường Đức Phật và chúng Tỳ-kheo vào ngày hôm sau.
Với trí tuệ của bậc Toàn giác, Đức Phật đã biết trước rằng, Cunda sẽ hái nhầm mộc nhĩ có độc để cúng dường. Ngài cũng biết rõ, trong khắp Pháp giới, không ai – dù ở cõi trời, cõi người hay ma giới – có thể tiêu hóa món ăn này trừ Ngài.
Đức Phật đã biết trước tất cả, nên nếu Ngài muốn từ bỏ món ăn đó thì có thể từ bỏ một cách dễ dàng. Nhưng Ngài vẫn nói với thợ sắt Cunda soạn riêng món mộc nhĩ cho Ngài thọ dụng và soạn các món ăn khác cho chúng Tỳ-kheo.
Trong Kinh Về Thuần Đà (thuộc Trường Bộ Kinh - Tập 2, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm IV) đã ghi lại sự kiện trên như sau: “Và Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ sắt Thuần Đà, khi đến xong liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với thợ sắt Thuần Đà:
- Này Thuần Đà, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Thuần Đà vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và loại mềm.
Rồi Thế Tôn nói với thợ sắt Thuần Đà:
- Này Thuần Đà, món ăn mộc nhĩ còn lại. Ông hãy đem chôn vào một lỗ. Này Thuần Đà, Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai”.
Ông thợ sắt Cunda dâng vật thực cúng dường Đức Phật, Ngài biết ông Cunda sẽ hái nhầm mộc nhĩ độc cúng dường Ngài
Sau khi thọ thực, Thế Tôn nhiễm bệnh lỵ huyết nặng, đau đớn tột cùng. Dù vậy, Ngài vẫn thuyết Pháp cho thợ sắt Cunda khiến tâm của ông hoan hỷ. Đức Phật chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu cơn bệnh, cùng Tôn giả A Nan đi đến Kusinara (Câu Thi Na). Trên đường đi, Ngài dừng chân nghỉ dưới một gốc cây, nói Tôn giả A Nan đi lấy nước uống. Dù Tôn giả A Nan đã ba lần bạch thỉnh rằng nước sông gần đây mới có 500 cỗ xe chạy qua, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục; nhưng Đức Phật vẫn muốn Tôn giả A Nan đến lấy nước ở con sông đục đó. Kỳ diệu thay, khi Tôn giả A Nan đến nơi, con sông liền trong vắt, sáng lặng và không vẩn đục.
Đó là nhân duyên Đức Phật thọ nhận món mộc nhĩ độc, khiến thân bị bệnh khốc liệt và cũng là phương tiện độ sinh của Ngài trước khi nhập Niết bàn.
Bài học Đức Phật để lại qua bữa ăn cuối cùng để hóa độ chúng sinh
1. Người cúng dường với tâm thanh tịnh nhận được phước báu nhiều đời
Sau khi thọ nhận bữa ăn mà thợ sắt Cunda cúng dường, Đức Phật thuyết Pháp cho ông. Ngài giảng rằng, người cúng dường bữa ăn trước khi Đức Phật thành đạo và trước khi Đức Phật nhập Niết bàn đều được phước báo vô cùng to lớn. Điều này đã được ghi trong kinh Trường Bộ: “Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác”.
Đức Phật thuyết Pháp như vậy để chúng ta biết đây là nhân duyên, xuất phát tâm từ bi của Đức Phật, để thợ sắt Cunda không lo lắng vì đã dâng món mộc nhĩ độc cho Ngài.
Hai sự cúng dường được Đức Phật khẳng định là nhiều phước báu: Sự cúng dường của nàng Sujata (trước khi Đức Phật thành đạo) và Sự cúng dường của thợ sắt Cunda (trước khi Đức Phật nhập Niết bàn)
Không chỉ vậy, Đức Phật đã từ bi thị hiện cho người tu và người cúng dường đời sau có tri kiến đúng đắn về việc cúng dường. Ngài dạy rằng, khi cúng dường với tâm thanh tịnh, thành kính tín - nếu món ăn đó chẳng may có độc thì công đức của người dâng cúng không hề tổn giảm hay bị ảnh hưởng.
Như trường hợp của ông Cunda, dù món ăn ông dâng cúng khiến Đức Phật bị bạo bệnh sau khi thọ thực, nhưng ông vẫn được phước báo nhiều đời. Cho nên, khi cúng dường những bậc tu hành với tâm thanh tịnh, dù việc gì xảy ra, chúng ta cũng không nên lo lắng.
2. Người đắc đạo vẫn có thể bị bệnh
Với tuệ giác siêu việt, Đức Phật biết trước rằng sau khi Ngài nhập Niết bàn, chúng sinh thời mạt Pháp sẽ có những quan điểm sai lầm, tà kiến. Một trong số đó là quan điểm rằng, người tu nếu mắc bệnh thì sẽ không thể đắc đạo; hoặc người đã đắc đạo thì sẽ không mắc bệnh trước khi xả bỏ báo thân.
Đức Phật là bậc Toàn giác, nhưng đến bữa ăn cuối cùng, thân Ngài vẫn chịu cơn đau khốc liệt. Ngài đã thị hiện thân bệnh để đem lại chính kiến cho chúng sinh rằng, người bị bệnh không phải là không đắc đạo và người đắc đạo không phải là không bị thân bệnh. Điều này giúp chúng sinh sau này tránh được những nhận xét sai lầm, phạm đến người chân tu đắc đạo khi các vị ấy xả báo thân cuối cùng bằng những nhân duyên của riêng mình.
Qua đây, chúng ta hiểu rằng, sự nhập diệt của các bậc tu đắc đạo, mỗi vị một nhân duyên, chứ không phải người đắc đạo nào cũng kiết già thiền định, ra đi trong trạng thái thân không bệnh. Đồng thời, Đức Phật chỉ ra cho các vị tu hành được định tâm trong giây phút bạo bệnh cuối cùng của mình, vẫn thực hành thiền định và chứng đắc ngay trong giây phút xả bỏ báo thân. Cho nên, đây là lòng từ bi vô lượng của Đức Phật.
Đức Phật thị hiện bị bệnh khốc liệt trước khi bỏ báo thân là để chúng sinh sau này tránh những nhận xét sai lầm, phạm đến bậc chân tu đắc đạo (ảnh minh họa)
3. Người làm Thầy luôn nhận hiểm nguy về mình
Trong bữa ăn cuối cùng, Đức Phật biết món mộc nhĩ có độc nên dặn ông Cunda dâng món đó cho mình, còn những món ăn khác thì cúng dường các vị Tỳ-kheo. Qua việc này, chúng ta thấy được lòng từ bi vô hạn của Đức Phật – đó là bậc Thầy luôn nhận hiểm nguy về mình và dành những điều an lành cho đệ tử.
Nếu muốn đi trên con đường của Đức Phật, muốn thành tựu Vô thượng Bồ đề thì chúng ta cũng cần thực tập như vậy – những gì khó khăn thì chúng ta làm, những gì dễ dàng, an lạc thì hãy dành cho đại chúng.
Đức Phật luôn nhận nguy hiểm về mình và dành những điều an lành cho đệ tử (ảnh minh họa)
4. Bậc tu đắc đạo luôn có đầy đủ mọi phương tiện làm thanh tịnh tâm của chúng sinh
Trên đường từ nhà thợ sắt Cunda đi Kusinara, Đức Thế Tôn dừng chân nghỉ dưới gốc cây và ba lần chỉ dạy Ngài A Nan đi lấy nước uống từ một dòng sông đang bị khuấy đục. Khi Ngài A Nan đặt bình bát để múc nước thì dòng sông ngay lập tức trở nên trong lành. Điều hy hữu nhiệm màu đó là nhờ năng lực công đức của Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nghỉ dưới gốc cây và ba lần chỉ dạy Ngài A Nan đi lấy nước uống ở một dòng sông đang bị khuấy đục (ảnh minh họa)
Từ đó, chúng ta hiểu rằng, Đức Phật thị hiện duyên này để khẳng định: Người tu hành đắc đạo dù thân mắc bạo bệnh nhưng năng lực công đức không hề tổn giảm, năng lực của tâm không bị ảnh hưởng. Đây là sự thị hiện tuyệt vời của Đức Phật, giúp giải nghi và làm thanh tịnh tâm của chúng sinh.
Khi Ngài A Nan đi múc nước cúng dường Đức Phật, Ngài vẫn là một vị Tỳ-kheo (phàm Tăng) chưa đắc đạo. Qua sự kiện Đức Phật bị bạo bệnh, đương nhiên trong lòng người đệ tử cũng có những nghi ngờ. Chính sự thị hiện này đã khiến Tôn giả A Nan có đầy đủ thanh tịnh tâm đối với Đức Phật. Sau này, với trí nhớ siêu việt, A Nan đã kết tập lại kinh điển.
Sự kiện này cũng đã khẳng định rằng: Bậc tu hành đắc đạo luôn đầy đủ phương tiện làm thanh tịnh tâm chúng sinh, không làm mất tín tâm của chúng sinh cho dù bị bạo bệnh.
Qua đó, người đệ tử Phật phải thấy được rằng, lòng từ bi của Đức Phật quả thật là vô lượng, tới giây phút cuối cùng trước khi nhập diệt mà Ngài còn độ cho chúng sinh; không phải chỉ mình ông Cunda, hay Đại đức A Nan mà là tất cả chúng sinh trong các kiếp vị lai.
Đức Phật là bậc từ bi vô lượng, tới giây phút cuối cùng trước khi nhập diệt mà Ngài còn độ cho chúng sinh (ảnh minh họa)
Trong những giây phút cuối cùng, Đức Thế Tôn vẫn độ sinh, thọ nhận món mộc nhĩ độc của ông Cunda, đồng thời thị hiện để chúng sinh sau này có được chính kiến trên con đường tu học. Dù đã nhập Niết Bàn nhưng tâm từ của Ngài vẫn còn mãi trong khắp pháp giới. Tấm gương về lòng từ bi, ân đức vô biên vì chúng sinh của Ngài là bài học quý báu không gì sánh được để hàng đệ tử noi theo.
Mong rằng nhân dịp kỷ niệm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, các Phật tử cùng nhau tinh tấn nỗ lực quán niệm ân đức của Đức Thế Tôn để được lợi ích an vui.
Các bài nên xem:

Bình luận (500)
Quản trị trang
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Quản trị trang và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.
Lại thị lan
Đỗ Thị Hương
Trần ngọc oanh
Hạnh Thuận
nguyễn nhung