Con người vẫn luôn khắc khoải đi tìm nơi không còn khổ đau, phiền não, một nơi mà tâm được an trú trong bình an, hỷ lạc vĩnh viễn.
Trong giáo lý nhà Phật, nơi ấy chính là Niết bàn – trạng thái thanh tịnh, an vui tuyệt đối; nơi không còn dấu vết của khổ đau, không còn sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt sinh tử luân hồi. Niết bàn cũng chính là đích đến tối hậu trong hành trình tu tập của mỗi hành giả.
Để hiểu rõ hơn về Niết bàn và con đường đưa đến Niết bàn, mời quý vị cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Mục lục [Hiển thị]
Niết bàn là gì?
Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp, câu 46 – Niết bàn, Tỳ-kheo Na Tiên nói rằng: “Niết bàn chính là diệt, là tịch diệt, một trạng thái ngưng nghỉ và vắng lặng”.
Như vậy, Niết bàn là trạng thái tâm không phiền não, tâm không còn dính mắc, được hạnh phúc, an vui.
Niết bàn không phải là một trú xứ, một cõi giới nào khác, mà là trạng thái tâm của chúng ta khi đã trong sạch, diệt hết các phiền não, phiền não không sinh ra được nữa thì lúc ấy gọi là Niết bàn (hay gọi là tâm Niết bàn hoặc trạng thái Niết bàn). Ai cũng có tâm, nếu chăm chỉ tu hành, lọc luyện tâm mình sạch sẽ thì sẽ thấy Niết bàn, chứ không cần đi đâu. Cho nên, ai cũng có thể thành tựu Niết bàn.
Cảnh giới Niết bàn là cảnh giới cao nhất, vi diệu hơn cảnh giới Tây Phương rất nhiều. Niết bàn là nơi đã hoàn toàn đắc quả. Còn ở Tây Phương, nếu chưa đạt Thượng Phẩm Thượng Sinh thì vẫn phải trải qua biên địa, rồi Hạ Phẩm Hạ Sinh. Sau đó tiếp tục tu hành qua nhiều kiếp mới đến Trung Phẩm Trung Sinh, rồi mới tiến lên Thượng Phẩm Thượng Sinh. Quãng đường ấy còn rất dài, không thể đếm hết bao nhiêu kiếp.
Niết bàn là trạng thái tâm không phiền não, tâm không còn dính mắc, được hạnh phúc, an vui (ảnh minh họa)
Niết bàn có mấy loại?
Có 4 loại Niết bàn: Tự tính thanh tịnh Niết bàn, Hữu dư y Niết bàn, Vô dư y Niết bàn, Vô trụ xứ Niết bàn (Theo kinh Đại Bát Niết Bàn - Tập 1, phẩm thứ sáu: Danh Tự Công Đức).
1. Tự tính thanh tịnh Niết bàn
Tất cả chúng sinh từ trong thể tính của mình đều có phẩm chất, tính chất của Niết bàn nhưng do vô minh, ái dục che lấp, điên đảo mà không nhận ra. Việc này cũng giống như trong một cốc nước đục có nước trong, chỉ là bùn đất lẫn vào, nếu để bùn lắng xuống thì nước sẽ trong sạch.
2. Hữu dư Niết bàn
Hữu dư Niết bàn (hay còn gọi là Niết bàn hữu dư y) là Niết bàn của các bậc Thánh nhân khi vẫn còn mang thân xác ngũ uẩn, còn đang trụ thế. Hữu dư y nghĩa là còn dư sót thân ngũ uẩn lần cuối. Ví dụ, các bậc tu hành chứng Thánh quả A-la-hán khi vẫn còn thân tứ đại thì lúc đó cũng đã đạt được Niết bàn.
Hữu dư y Niết bàn là Niết bàn của các bậc Thánh nhân khi vẫn còn mang thân xác ngũ uẩn (ảnh minh họa)
3. Vô dư y Niết bàn
Vô dư y Niết bàn (hay Niết bàn vô dư y) là khi các bậc Thánh A-la-hán viên tịch, bỏ xác thân – lúc ấy gọi là các Ngài nhập Niết bàn vô dư y, không còn thân dư sót nữa mà đã xả bỏ thân tứ đại.
Đức Phật nhập vô dư y Niết bàn (ảnh minh họa)
4. Vô trụ xứ Niết bàn
Vô trụ xứ Niết bàn là dành cho các vị Bồ tát, các Ngài không còn chấp trước vào đâu, không trụ chỗ nào, tâm họ không dính mắc, ứng hóa độ sinh khắp tất cả mà vẫn Niết bàn. Tức là các Ngài vẫn tiếp tục lăn lộn trong lục đạo luân hồi để cứu độ chúng sinh.
Vô trụ xứ Niết bàn là dành cho các vị Bồ tát, tâm họ không dính mắc, ứng hóa độ sinh khắp tất cả mà vẫn Niết bàn (ảnh minh họa)
Đặc tính của cõi Niết bàn
Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp - Tại Sao Không Thể Diễn Tả Niết Bàn Một Cách Cụ Thể?, Đại Đức Mi Lan Đà đã chỉ ra các đặc tính của Niết bàn như sau:
1. Mênh mông, không thấy mé bờ. Nếu vô lượng chúng sinh đời này, đời kia vào an trú, không vì thế mà Niết bàn đầy hơn. Niết bàn không bao giờ chật.
2. Niết bàn là cõi cao nhất (nói đến chỉ số hạnh phúc của thần dân ở cõi đó). Ví dụ tính cõi cao thấp như sau: Địa ngục là thấp nhất, thứ nhì là cõi ngạ quỷ, thứ ba là cõi súc sinh, thứ tư là cõi người, thứ năm là cõi trời A-tu-la, rồi đến tất cả các tầng trời, cao dần lên.
3. Niết bàn không rời đi, rớt đi, không hề rung chuyển, lay động. Ở Niết bàn sẽ không phải lo động đất, sóng thần, lũ quét,...
4. Ở Niết bàn, không ai áp chế được. Ví dụ, không giống ở cõi người, thời đại xa xưa, một số nước có các nước chư hầu – là những nước bị áp chế, phụ thuộc. Ở Niết bàn không như vậy.
5. Không ai trộm cắp, sở hữu được Niết bàn. Ví dụ, thời xưa, một quốc gia là do vua sở hữu, đất đai là của vua, do vua quản lý. Nhưng ở Niết bàn không có sở hữu như vậy, mà ở đây được tự tại, không bị áp chế.
6. Ở Niết bàn chỉ có độc nhất một thần dân cư trú - đó là vô lượng bậc Thánh nhân vô lậu, sống đời hạnh phúc, an lạc, chân thường; chứ không có nhiều dân tộc, chủng tộc.
7. Niết bàn là cảnh giới đi lại tự tại của các bậc Thánh. Ở đó, các Ngài sống an lạc, nhẹ nhàng, không hề cứng nhắc hay vô cảm. Cảm giác vắng lặng nơi Niết bàn không phải là sự trống rỗng, mà là sự tĩnh lặng của một tâm không còn tham, sân, si. Các bậc Thánh sống trong sự sáng suốt, trí tuệ và hỷ lạc. Họ không còn phiền não, tâm hoàn toàn thanh tịnh và trong sáng. Vì thế, Niết bàn không phải là nơi “không có gì cả”, mà là nơi không còn dấu vết của khổ đau, dính mắc. Nếu còn thấy có hình tướng trong tâm, thì chưa phải là tâm vắng lặng. Niết bàn là nơi không còn tướng của tham sân si, nhưng luôn thường hằng tâm từ bi, hỷ xả trong các nguồn tâm thanh tịnh và trí sáng suốt thấy biết.
8. Chỉ số hạnh phúc ở cõi Niết bàn là tuyệt đối, không cấu uế, phiền não, sân hận, không tâm tư, ý niệm dơ dáy và xa lìa sự thương, ghét – tức là bình đẳng như nhau, không thương người này, ghét người kia.
9. Niết bàn nuôi dưỡng đời sống bất tử của chúng sinh, không cho tiêu hoại bởi già và chết. Tức là, về đến Niết bàn là cuộc sống bất tử, mãi mãi đẹp đẽ như vậy, không già, bệnh và chết.
10. Niết bàn có trí tuệ, trí đức, tuệ đức. Ai cũng có thần lực và đức tính cao quý nên sống với nhau rất bình đẳng, hạnh phúc, vắng lặng nhưng tâm thường hỷ lạc.
11. Niết bàn là nơi hội tụ của mọi loài hương hoa thơm ngát được chiết ra từ các Pháp thanh tịnh. Vô lượng đức tính toàn mỹ, toàn thiện không đếm xiết được. Niết bàn làm cho thành tựu sở nguyện, làm cho hoan hỷ và an lạc.
Niết bàn nuôi dưỡng đời sống bất tử của chúng sinh, không cho tiêu hoại bởi già và chết (ảnh minh họa)
Cách để đắc Niết bàn
1. Buông bỏ ái chấp
Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp, câu số 47 – Ai sẽ đắc Niết bàn, khi vua Mi-lan-đà hỏi: “Ai tu hành đều đắc quả Niết bàn như nhau cả chứ?”
Đại Đức Na Tiên trả lời: “Không chắc như vậy. Người nào thực hành đúng chánh pháp, giác ngộ những pháp mà bậc trí tuệ đã giác ngộ, biết chắc những pháp mà bậc trí tuệ đã biết chắc, dứt bỏ những pháp mà bậc trí tuệ dứt bỏ, tiến hành những pháp mà bậc trí tuệ tiến hành, thấy rõ những pháp mà những bậc trí tuệ đã thấy rõ; người ấy mới đắc được Niết bàn, tâu đại vương”.
Như vậy, để đến được nơi hạnh phúc thì chúng ta phải thực hành các Pháp đưa chúng ta đến hạnh phúc - đó là Bát chính đạo. Bát chính đạo chỉ cho chúng ta thấy đâu là khổ, nguyên nhân của khổ, cách thoát khổ.
Đức Phật dạy rằng: Ái là khổ, nguyên nhân dẫn đến khổ là ái chấp. Cho nên, ở tại gia, chúng ta phải tự tại và phải chấp nhận những điều đến với mình thì mới đoạn được ái.
Cho nên, việc học Phật hàng ngày giúp chúng ta thấy được nhân quả, cách gieo nhân quả để chúng ta được tự tại, mà không bị đắm chấp, không bị cái chấp đó sinh ra khổ đau cho mình. Và nếu hết ái chấp, hết đau khổ thì sẽ đến được Niết bàn hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta phải buông bỏ hết những gì thuộc về ái chấp.
2. Giới, định, tuệ thanh tịnh
Bất cứ hành giả nào nếu giới, định, tuệ thanh tịnh, kiên trú vững chắc vào giới, định, tuệ thì Niết bàn sẽ hiện ra, không kể người đó ở đâu, trú xứ nào. Tu tập giới, định, tuệ ngay tại đây thì có thể đắc Niết bàn ngay tại đây.
Niết bàn không nằm ngoài tâm, mà ở ngay trong tâm. Khi tâm thanh tịnh, Niết bàn sẽ tự hiện.
Ví dụ, khi ngồi trong nhà, bầu trời vẫn ở đó, nhưng phải đập mái nhà thì mới thấy được bầu trời. Cũng vậy, trong tâm có tham, sân, si. Khi buông bỏ hết, tâm trở nên thanh tịnh, thì cảnh giới Niết bàn sẽ hiện ra.
Để đến được Niết bàn, cần quán chiếu Pháp hành – tức là tu định. Và khi thấy rõ Pháp hành là sinh diệt, là vô thường, khổ, vô ngã, là bất tịnh, là sầu bi, khổ ưu, phiền não; thì lúc đó, Niết bàn cũng tự hiện ra. Như vậy, chỉ cần mong muốn đập vỡ vô minh và xuất gia tu đạo thì sẽ được dạy về cách quán chiếu của các Pháp hành, từ đó sẽ rời xa được những cấu uế.
Niết bàn không nằm ngoài tâm, mà ở ngay trong tâm; khi tâm thanh tịnh, Niết bàn sẽ tự hiện (ảnh minh họa)
Trên đây là phân tích của Cô Phạm Thị Yến (Pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán) về cảnh giới Niết bàn qua Kinh Mi Tiên Vấn Đáp. Từ đó, chúng ta phần nào hiểu được rằng: Niết bàn không phải là một nơi xa xôi, mà là trạng thái tâm thanh tịnh, không còn dính mắc, khổ đau – hoàn toàn có thể đạt được nếu hành giả thực hành đúng chính Pháp.
Mong rằng bài viết này sẽ giúp quý vị thêm tinh tấn trên con đường tu tập, hiểu rõ hơn về mục đích tối hậu trong đạo Phật, để từng bước buông bỏ ái chấp và hướng tới sự an lạc chân thật nơi Niết bàn.
Bình luận
Quản trị trang
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Quản trị trang và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.