Vào thời khắc Thế Tôn sắp Nhập Niết Bàn, bên kia sông Hi Liên Thiền (Hirannavati), tại Hồ Bạt Đan (Upavattana) ở Câu Thi Na (Kusinàrà), rừng Sa-la của dòng họ Mạt La (Mallà). Tôn giả A Nan Đà (Ananda) vâng lời Thế Tôn trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sa-la song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh.
…Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả A Nan Đà:
Này A Nan Đà, hãy đi vào Câu Thi Na và nói với dân Mạt La Câu Thi Na: "Này các Bà Tất Sá (Vàsetthà), đêm nay, vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ diệt độ".
- Này Bà Tất Sá, các ông hãy đến. Này Bà Tất Sá, các ông hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả A Nan Đà vâng lời Thế Tôn, đắp y, đem theo y bát và cùng một vị khác làm bạn đồng hành đi vào Câu Thi Na.
Lúc bấy giờ, dân Mạt La ở thành Câu Thi Na đang tụ họp tại giảng đường vì một vài cộng sự. Tôn giả A Nan Đà đến tại giảng đường của dân Mạt La ở Câu Thi Na. Sau khi đến, tôn giả liền nói với dân Mạt La ở Câu Thi Na:
- Này Bà Tất Sá, đêm nay, vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ diệt độ. Này Bà Tất Sá, các ông hãy đến. Này Bà Tất Sá, các ông hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
Dân Mạt La cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả A Nan Đà nói như vậy, liền đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não. Kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than với thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Và dân Mạt La cùng với con trai, con gái và vợ, đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não, đi đến Hồ Bạt Đan, khu rừng Sa-la của dòng họ Mạt La, và đến chỗ tôn giả A Nan Đà.
Tôn giả A Nan Đà tự nghĩ: "Nếu ta để dân Mạt La ở Câu Thi Na đảnh lễ Thế Tôn từng người một, thời đêm sẽ tàn trước khi Thế Tôn được tất cả dân Mạt La đảnh lễ. Vậy ta hãy để dân Mạt La ở Câu Thi Na đảnh lễ theo từng gia tộc".
- Bạch Thế Tôn, gia tộc Mạt La này với vợ con, đồ chúng, bạn bè, đến cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và tôn giả A Nan Đà, theo phương tiện này trong canh một, khiến dân Mạt La ở Câu Thi Na đảnh lễ Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La (Subhadda) ở tại Câu Thi Na. Du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La được nghe: "Tối nay canh cuối cùng, Sa-môn Go-ta-ma sẽ diệt độ".
Và du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La suy nghĩ: "Ta nghe các du sĩ ngoại đạo niên cao, lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Go-ta-ma sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Go-ta-ma có thể thuyết pháp và giải được nghi vấn cho ta".
Rồi du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La đi đến Hồ Bạt Đan, khu rừng Sa-la của dân Mạt La, đến tại chỗ tôn giả A Nan Đà và thưa với tôn giả:
- Hiền giả A Nan Đà, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cao, lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Go-ta-ma sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Go-ta-ma có thể thuyết pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả A Nan Đà, hãy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Go-ta-ma.
Khi được nói vậy, Tôn giả A Nan Đà nói với du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La:
- Thôi đi Hiền giả Tu Bạt Đà La, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Lần thứ hai... Lần thứ ba, du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La nói với tôn giả A Nan Đà:
- Hiền giả A Nan Đà, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cao, lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Go-ta-ma sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Go-ta-ma có thể thuyết pháp và giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả A Nan Đà, hãy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Go-ta-ma.
Lần thứ ba, tôn giả A Nan Đà nói với du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La:
- Thôi đi Hiền giả Tu Bạt Đà La, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Thế Tôn nghe được câu chuyện của tôn giả A Nan Đà với du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La, Ngài liền nói với tôn giả A Nan Đà:
- Thôi A Nan Đà, chớ có ngăn trở Tu Bạt Đà La. Này A Nan Đà, hãy để cho Tu Bạt Đà La được phép yết kiến Như Lai. Những gì Tu Bạt Đà La hỏi Ta là hỏi để hiểu biết chớ không phải để phiền nhiễu Ta. Và những gì Ta trả lời, thời Tu Bạt Đà La sẽ hiểu ý nghĩa một cách mau lẹ.
Tôn giả A Nan Đà liền nói với du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La:
- Này Hiền giả Tu Bạt Đà La, hãy vào. Thế Tôn đã cho phép Hiền giả.
Rồi du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La đến chỗ Thế Tôn, nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Go-ta-ma, có những Sa-môn, Bà-la-môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các ngài Phú-la Ca-diếp (Pàrana Kassapa), Mạc-già-lê Cù-xá-lợi (Makkhali Gosàla), A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la (Ajita Kesakambalì), Bà-phù-đà Ca-chiên-nê (Pakadha Kaccàyana), Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất (Sanjaya Belatthaputta), Ni-kiền-tử (Nigantha Nàtaputta), tất cả những vị này có phải là giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ?
- Thôi Tu Bạt Đà La, hãy để vấn đề này yên một bên: "Tất cả những vị này có phải là đã giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ". Này Tu Bạt Đà La, Ta sẽ thuyết pháp cho ông. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Này Tu Bạt Đà La, trong Pháp-Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, ở đây cũng không có đệ tam Sa-môn, ở đây cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Tu Bạt Đà La trong Pháp-Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, ở đây cũng có đệ tam Sa-môn, ở đây cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Tu Bạt Đà La, chính trong Pháp-Luật này có Bát Thánh Đạo, thời này Tu Bạt Đà La, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, ở đây cũng có đệ tam Sa-môn, ở đây cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Tu Bạt Đà La, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán:
Này Tu Bạt Đà La, năm Ta hai mươi chín,
Ta xuất gia hướng tìm chân thiện đạo.
Trải năm mươi năm với thêm một năm
Từ khi xuất gia, này Tu Bạt Đà La,
Ta là du sĩ tu Trí, tu Đức.
Ngoài lãnh vực này, không có Sa-môn đệ nhất, cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng không có Sa-môn đệ tam, cũng không có Sa-môn đệ tứ. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Tu Bạt Đà La, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh, thì đời này không vắng những vị A-la-hán.
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La bạch Thế Tôn:
- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được xuất gia với Thế Tôn. Con xin thọ đại giới.
- Này Tu Bạt Đà La, ai trước kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu các vị Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
Và Thế Tôn nói với tôn giả A Nan Đà:
- Này A Nan Đà, hãy xuất gia cho Tu Bạt Đà La.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả A Nan Đà vâng lời Thế Tôn.
Du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La nói với tôn giả A Nan Đà:
- Thật là lợi ích, thưa Tôn giả A Nan Đà, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả A Nan Đà, được thọ lễ quán đảnh làm đệ tử trước mặt bậc Đạo Sư!
Và du sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La được xuất gia, được thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao lâu, đại đức Tu Bạt Đà La ở một mình, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự giác chứng và an trú. Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.
Và đại đức Tu Bạt Đà La trở thành một A-la-hán nữa. Đại đức là vị đệ tử cuối cùng được Thế Tôn thế độ.
Trích soạn nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Hòa thượng Thích Minh Châu - Việt dịch. Xem: Kinh Tạng Nam Truyền, Trường Bộ Kinh, Tập 2, tr. 155-160.
Bình luận (1)
Ban quản trị
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Ban Quản trị và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.
Trần Thị Thu
Con xin tri ân công đức trên Sư Phụ cùng đại Tăng, xin tri ân Cô chủ nhiệm đã tạo nhân duyên tốt cho chúng con được tu tập ạ. Con rất xúc động khi tu tập chương trình Đức Phật nhập Niết Bàn ạ