Bát kỉnh Pháp (tám Pháp tôn sư) là tám điều kiện bắt buộc do Đức Phật chế định dành riêng cho nữ giới khi muốn gia nhập Tăng đoàn - Tỳ-kheo Ni phải luôn nuôi dưỡng lòng cung kính đối với Tỳ-kheo Tăng. Đây không phải là sự trọng nam khinh nữ, mà Bát kỉnh Pháp có ý nghĩa bảo hộ Tăng đoàn và duy trì sự trường tồn của chính Pháp. Việc thực hành trọn vẹn tám điều này chính là nền tảng giúp người nữ đạt được Thánh quả.
Để hiểu đúng về Bát kỉnh Pháp cũng như lợi ích thiết thực khi người nữ tôn trọng và thực hành tám Pháp này, kính mời quý độc giả cùng đón đọc bài viết dưới đây!
Mục lục [Hiển thị]
Bát kỉnh Pháp là gì?
Bát kỉnh Pháp là điều nữ giới phải chấp nhận và thực hành để được xuất gia; cần được Tỳ-kheo Ni giữ gìn bằng sự tôn trọng trọn vẹn, không được rời bỏ - như cách người học trò suốt đời kính trọng và nương tựa nơi thầy của mình. Trong kinh Bát Kỉnh Pháp - Điều Kiện Người Nữ Được Xuất Gia (kinh Cù Đàm Di, Trung A-hàm), Đức Phật đã dạy tám Pháp này bao gồm:
1. Tỳ-kheo Ni phải cầu thọ cụ túc nơi Tỳ-kheo.
Tức khi xuất gia, người nữ phải được Tỳ-kheo Tăng thọ giới cho.
2. Tỳ-kheo Ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo.
Nếu người đi xuất gia ở Ni chúng (thiền viện hay chùa Ni) thì mỗi nửa tháng họ phải cầu thỉnh chư Tăng đến giảng dạy một lần.
Cứ mỗi nửa tháng, Tỳ-kheo Ni phải đến cầu thỉnh Tỳ-kheo Tăng giảng dạy (ảnh minh họa)
3. Nếu nơi trú xứ không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni không được thọ hạ an cư.
Điều này có nghĩa là vào ba tháng an cư kiết hạ, Tỳ-kheo Ni cần đến nơi có Tỳ-kheo Tăng để thọ hạ an cư, thay vì tu tập riêng tại chùa Ni. Hoặc, chư Ni phải thỉnh một số đông chư Tăng về an cư tại trú xứ của mình; chỉ khi ấy, mùa an cư của Ni chúng mới được thành tựu đúng Pháp.
4. Tỳ-kheo Ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự kiện: thấy, nghe và nghi.
Sau ba tháng thọ hạ an cư, vào ngày tự tứ, chư Tỳ-kheo Ni phải bạch trước chư Tăng về ba điều:
Thứ nhất là thấy: Tỳ-kheo Ni cần trình bày cái thấy của mình (như cảm nhận về Pháp, thấy được điều gì,...) để được xét xem cái thấy đó có đúng không.
Thứ hai là nghe: Những điều Tỳ-kheo Ni nghe được hoặc trong lúc trao đổi với hội chúng, đều phải bạch lên hội đồng chư Tăng - tức các thầy giáo thọ - để được giảng giải lại cho thấu đáo và đúng nghĩa.
Thứ ba là nghi: Đối với những điều trong giáo Pháp mà bản thân còn khởi lên nghi ngờ, chư Ni phải giải trình ra trước hai bộ chúng Tăng và Ni, để được làm sáng tỏ.
5. Nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo Ni thưa hỏi thì Tỳ-kheo Ni không được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì Tỳ-kheo Ni mới được thưa hỏi về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm.
Nếu Tỳ-kheo Ni thưa thỉnh, bạch hỏi về các Pháp này mà Tỳ-kheo Tăng không đồng ý trả lời, thì không được tiếp tục hỏi. Chỉ khi chư Tăng chấp thuận, Tỳ-kheo Ni mới được phép hỏi.
6. Tỳ-kheo Ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo Ni.
Tức nếu Tỳ-kheo Tăng có lỗi trái phạm thì Tỳ-kheo Ni không được nhắc lỗi; ngược lại, Tỳ-kheo Tăng có quyền nhắc lỗi của Tỳ-kheo Ni.
Đức Phật chế định điều luật này vì Ngài biết rõ đặc tính của cả người nữ và người nam. Nếu nữ giới thường xuyên ghi nhớ, để ý và nói lỗi của người nam thì dễ sinh lòng ái nhiễm, từ sự chán ghét ban đầu có thể chuyển thành cảm giác yêu mãnh liệt. Trái lại, nơi người nam, chỉ cần nhiều lần nhìn thấy điều xấu nơi nữ nhân thì tâm dễ khởi sợ hãi và không muốn gần gũi.
7. Tỳ-kheo Ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày.
Pháp tôn sư này thuộc về giới luật của Tỳ-kheo Tăng, Ni. Khi chư Tỳ-kheo Ni phạm vào lỗi Tăng-già-bà-thi-sa, trong thời hạn 15 ngày, vị này phải đối trước chư Tăng, Ni để hành bất mạn, tức xin thực hành công hạnh để tiêu trừ tội lỗi.
8. Tỳ-kheo Ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối với trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu làm lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi.
Điều luật này không áp dụng cho các bậc Thánh Ni, mà chỉ dành cho những vị Tỳ-kheo Ni thọ Cụ túc giới. Bởi những bậc Thánh Ni đã hành trì viên mãn, không còn thiếu khuyết một Pháp nào trong tám Pháp cung kính. Hơn nữa, các bậc Thánh Ni vốn rất khéo léo và chừng mực trong hành xử, nên không cần thêm sự nhắc nhở nào.
Tỳ-kheo Ni thọ giới Cụ túc 100 năm vẫn phải cung kính đảnh lễ vị Tỳ-kheo Tăng mới thọ giới (ảnh minh họa)
Nhân duyên Đức Phật chế định Bát kỉnh Pháp - Lòng từ bi bình đẳng của Đức Phật với người nữ
Nhân duyên Đức Phật chế định Bát kỉnh Pháp từ sự kiện Di mẫu của Đức Phật - bà Kiều Đàm Di thiết tha xin Phật cho xuất gia. Cuối cùng, sau nhiều ngày quán căn duyên, hướng tâm đến thời gian tồn tại của chính Pháp, Đức Phật quyết định cho phép Di mẫu xuất gia, thành lập và phát triển giáo hội Tỳ-kheo Ni.
Tuy vậy, Ngài cũng dạy rằng việc người nữ xuất gia sẽ khiến thời gian tồn tại của chính Pháp giảm đi một nửa. Vì vậy, để giáo Pháp được trụ lâu dài ở thế gian và bảo hộ cho việc xuất gia của người nữ, Đức Phật đã chế định ra Bát kỉnh Pháp - tám điều người nữ không được trái phạm và phải phụng trì suốt đời.
Đức Phật quyết định thành lập giáo hội Tỳ-kheo Ni sau nhiều ngày quán căn duyên (ảnh minh họa)
3 lợi ích khi Tỳ-kheo Ni thực hành Bát kỉnh Pháp
1. Giữ gìn uy tín và oai nghi của Tăng đoàn
Việc chư Ni giữ gìn và thực hành trọn vẹn Bát kỉnh Pháp sẽ làm nổi bật sự trang nghiêm của Tăng đoàn, đồng thời khơi dậy lòng kính trọng nơi ngoại đạo.
Bởi lẽ, nếu người nữ chưa được phép xuất gia, thì hàng Bà-la-môn và cư sĩ ngoại đạo còn cung kính mà tán thán rằng chư Tăng làm được việc khó làm. Ngược lại, khi người nữ được xuất gia, sống đời phạm hạnh trong giáo Pháp Phật, họ dễ sinh tâm coi thường mà cho rằng Pháp Phật và những người nam thực hành Pháp Phật không cao quý.
Nhưng khi thấy một vị Tỳ-kheo Ni cung kính đảnh lễ và thưa hỏi chuyện Tỳ-kheo Tăng, họ liền khởi tâm kính ngưỡng đối với chư Tăng, Ni nói riêng và cả Tăng đoàn nói chung bởi sự lễ nghi của hội chúng.
Ni chúng hành trì viên mãn Bát kỉnh Pháp sẽ khơi dậy lòng kính trọng đối với ngoại đạo (ảnh minh họa)
2. Bảo tồn sự lâu dài của chính Pháp
Chính Pháp xuất hiện kể từ khi Đức Phật thành đạo. Trong bài kinh Bát Kỉnh Pháp - Điều Kiện Người Nữ Được Xuất Gia, Đức Phật dạy người nữ muốn làm trò, bước vào Pháp Luật của Như Lai thì cần nương theo Ngài mà hành trì Bát kỉnh Pháp. Chỉ như vậy, giáo Pháp mới có thể trụ lâu dài ở thế gian.
Bởi nếu nữ nhân ở trong Pháp Luật chân chính mà không tuân theo và thực hành tám Pháp tôn sư, thì thời gian tồn tại của giáo Pháp sẽ rút ngắn còn 5000 năm, riêng chính Pháp chỉ tồn tại 500 năm. Trái lại, khi người nữ xuất gia giữ gìn đầy đủ những điều cung kính này, thì giáo Pháp của Đức Phật không bị suy giảm đi mà còn được kéo dài thêm.
3. Nền tảng giúp người nữ chứng Thánh
Trong kinh Bốn Lý Do Tỳ Kheo Ni Không Được Bỏ Bát Kỉnh Pháp (kinh Cù Đàm Di, Trung A-hàm), Đức Phật cũng chỉ rõ về năm điều thân nữ không thể làm được, trong khi thân nam có thể. Đó là được thành Như Lai, Chuyển luân vương, Thiên Đế thích, Ma vương và Đại Phạm Thiên. Sở dĩ có sự khác biệt này là bởi phước báu mà người nữ tích lũy nhiều đời không đủ để có duyên đắc được năm thân tướng ấy. Trong khi đó, thân nam có thể vun bồi phước đức và hành các ba-la-mật ngay hiện đời để đạt đến những địa vị này.
Chính vì không đủ duyên được thành năm ngôi vị ấy, người nữ khi cầu xuất gia cần phụng trì Bát kỉnh Pháp; đó là điều kiện để được bước vào Pháp Luật của Như Lai. Việc tôn trọng và giữ gìn tám Pháp này như nương tựa nơi người thầy của mình sẽ giúp người nữ dần gột rửa những bất thiện trong tâm, để trở thành bậc Thánh A-la-hán.
Thực hành Bát kỉnh Pháp là nhân duyên giúp người nữ thành tựu Thánh quả (ảnh minh họa)
Trên đây là những chia sẻ của Cô Phạm Thị Yến - Pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán, chủ nhiệm CLB Cúc Vàng - Tập Tu Lục Hòa về Bát kỉnh Pháp qua lời dạy của Đức Phật trong các bài kinh. Hy vọng rằng, qua bài viết trên, độc giả sẽ có góc nhìn đúng về Bát kỉnh Pháp, đồng thời thêm hiểu và sinh lòng tôn kính tâm từ bi bình đẳng của Đức Phật dành cho nữ giới, từ đó phát tâm tu tập theo giáo Pháp Phật để được hạnh phúc, an vui ngay trong hiện tại. Cũng hy vọng những người nữ có chí nguyện xuất gia hiểu về điều kiện bản thân phải thực hành để được xuất gia đúng Pháp.
Nếu còn điều gì thắc mắc, quý độc giả có thể để lại bình luận dưới bài viết, gửi về chuyên mục Tâm sự - Giải đáp thắc mắc để được giải đáp. Kính chúc quý vị an lạc!
Xem thêm bài kinh:
Bình luận


![[Video] Tụng kinh Tam Bảo thế nào để chuyển hóa nạn dịch bệnh và thiên tai?](https://media.phamthiyen.com/pty/posts/covit/tung-kinh-tam-bao.jpg)
![[Video] Phật tử rải tâm từ trong nạn dịch Covid-19 bằng cách nào?](https://media.phamthiyen.com/pty/posts/covit/cach-gia-tam-tu-trong-nan-dich-covit-19.jpg)




![[Video] Tinh thần 'Ở nhà là yêu nước' trong cuộc chiến chống COVID-19 của Phật tử CLB Cúc Vàng](https://media.phamthiyen.com/pty/covit/o-nha-la-yeu-nuoc.jpg)

![[Video] Giác ngộ để phát quảng đại tâm khi tu tập hồi hướng hóa giải nạn nghiệp Covid-19](https://media.phamthiyen.com/pty/covit/nan-nghiep-covid-19.jpg)








Quản trị trang
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Quản trị trang và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.