Tôn giả Bàn Đặc là một vị đệ tử của Đức Phật, tính tình ám độn, ngu muội, ba năm không thuộc nổi một bài kệ. Thế nhưng, cũng chính vị Tỳ-kheo ấy, nhờ phương tiện hóa độ thiện xảo của Đức Phật mà chỉ từ một bài kệ đã có thể tâm khai trí sáng, chứng đắc Thánh quả A-la-hán.
Để hiểu rõ hơn về hành trình từ một Tỳ-kheo kém trí trở thành Thánh Tăng A-la-hán, mời quý độc giả cùng theo dõi nội dung dưới đây!
Mục lục [Hiển thị]
- Bàn Đặc: Tỳ-kheo ngu muội chứng quả A-la-hán sau một bài kệ
- Tôn giả Bàn Đặc thuyết pháp giúp hội chúng Tỳ-kheo Ni chứng đắc A-la-hán
- Đức Phật hiển bày thần thông của Tôn giả Bàn Đặc trước vua Ba Tư Nặc và quần thần
- Bài học từ sự giác ngộ của Tôn giả Bàn Đặc
- 1. Niệm ân đức và trú trong hạnh vâng lời sẽ phát sinh trí tuệ
- 2. Khiêm tốn để làm phương tiện hóa độ người khác
- 3. Người tu là người chuyển hóa liên tục
Bàn Đặc: Tỳ-kheo ngu muội chứng quả A-la-hán sau một bài kệ
Thời Đức Phật có một vị Tỳ-kheo kém trí tên là Bàn Đặc, lớn tuổi mới xuất gia. Thương cho ông, Đức Phật cho năm trăm vị A-la-hán thay nhau dạy dỗ mỗi ngày. Thế nhưng, suốt ba năm ròng, Tỳ-kheo Bàn Đặc vẫn không thể học được một bài kệ. Người dân thành Xá Vệ ai cũng biết ông ngu muội.
Dù được năm trăm vị A-la-hán dạy dỗ suốt ba năm ròng nhưng Tỳ-kheo Bàn Đặc vẫn không thể học được một bài kệ (ảnh minh họa)
Đức Phật thương xót, bèn gọi ông lại và dạy ông một bài kệ:
“Giữ miệng, thu nhiếp ý
Thân không phạm lỗi chi
Ai làm được như vậy
Sinh tử chẳng còn gì”.
Nghe xong, Bàn Đặc cảm niệm ân đức của Đức Thế Tôn nên tâm ông liền được hoan hỷ, khai sáng và tụng thuộc bài kệ này.
Khi Bàn Đặc lần đầu thuộc được bài kệ, Đức Phật đã nhắc nhở rằng việc này chưa có gì đặc biệt. Lời dạy ấy giúp ông đoạn trừ tâm ngã mạn, không để niềm vui tự mãn làm cản trở trí tuệ. Sau đó, ông Bàn Đặc vâng lời nhất tâm nghe giảng. Đức Phật thuyết cho ông về nguyên nhân mà ba nghiệp thân - khẩu - ý tạo tác; khuyên ông hãy quán chiếu những nghiệp này sinh khởi như thế nào, chấm dứt ra sao, chúng sinh trôi lăn không ngừng trong ngũ thú tam giới, do nó mà sinh thiên, do nó mà đọa lạc, lại cũng nhờ nó mà đắc đạo quả, chứng Niết bàn. Đức Phật vì Bàn Đặc giảng nói vô lượng diệu Pháp. Nghe xong, Bàn Đặc tâm khai ngộ và chứng quả A-la-hán, từ một kẻ ngu muội trở thành bậc Thánh trí.
Sau khi được nghe Đức Phật giảng một bài kệ, Tỳ-kheo Bàn Đặc đã chứng đắc quả A-la-hán (ảnh minh họa)
Tôn giả Bàn Đặc thuyết pháp giúp hội chúng Tỳ-kheo Ni chứng đắc A-la-hán
Lúc ấy, có năm trăm vị Tỳ-kheo Ni ở tinh xá riêng. Đức Phật mỗi ngày cử một vị Tỳ-kheo đến đó giảng kinh, thuyết Pháp. Hôm sau là đến phiên Tôn giả Bàn Đặc, Ni chúng biết tin đều cười nhạo, khinh miệt, bàn nhau đón trước bài kệ để làm ông bẽ mặt.
Hôm sau, Bàn Đặc đến chỗ các Tỳ-kheo Ni. Các vị Ni lớn nhỏ đều ra làm lễ, rồi ngó nhau cười khúc khích. Các Tỳ-kheo Ni mời Bàn Đặc ngồi rồi dọn thức ăn ra cúng dường. Thọ trai và rửa tay xong, các cô lại thỉnh ông thuyết Pháp. Khi bước lên tòa cao, Tôn giả Bàn Đặc hạ mình khiêm tốn, thừa nhận trí lực còn hạn chế, chỉ hiểu sơ bài kệ duy nhất. Các Tỳ-kheo Ni trẻ tuổi định nói đón trước bài kệ đó mà không sao mở miệng được. Thấy vậy, tất cả đều kinh sợ tự trách, cúi đầu ăn năn.
Bàn Đặc liền như Đức Phật đã dạy, giảng giải cặn kẽ từng chút về ba nghiệp thân - khẩu - ý gây tạo tội phước ra sao, những pháp sinh thiên, đắc đạo quả, ngưng thần, trừ vọng tưởng, nhập chính định. Các Tỳ-kheo Ni nghe lời giảng dạy vô cùng kinh ngạc, hoan hỷ nhất tâm lắng nghe, chứng được quả A-la-hán.
Tôn giả Bàn Đặc thuyết Pháp khiến các Tỳ-kheo Ni hoan hỷ nhất tâm lắng nghe và chứng đắc quả A-la-hán (ảnh minh họa)
Đức Phật hiển bày thần thông của Tôn giả Bàn Đặc trước vua Ba Tư Nặc và quần thần
Có lần, vua Ba Tư Nặc thỉnh Đức Phật và chư Tăng vào cung cúng dường. Đức Phật muốn hiển bày oai thần của Bàn Đặc nên giao bình bát cho ông cầm đi sau cùng. Vì người gác cổng chấp trước vào việc trước đây Ngài Bàn Đặc ngu tối, không có trí tuệ, một bài kệ cũng không thuộc nên khinh thường và ngăn không cho vào.
Lúc đó, Tôn giả Bàn Đặc đứng bên ngoài cửa cung, Đức Phật ngồi trong cung. Khi Đức Phật rửa chân tay xong, Tôn giả liền duỗi tay dài tới tận trong cung để trao bình bát đến cho Đức Phật. Nhìn thấy cánh tay vươn dài ấy, vua, phu nhân, Thái tử và quần thần đều kinh ngạc nên liền bạch hỏi Đức Phật.
Ngài giải thích rằng cánh tay này là của Tôn giả Bàn Đặc, gần đây ông ấy đã đắc đạo. Khi nãy, Đức Phật đã giao cho ông cầm bình bát nhưng người gác cửa cung không cho vào nên ông Bàn Đặc phải duỗi dài tay ra để trao bát cho Đức Phật. Vua nghe vậy liền cho người mời Bàn Đặc vào. Lúc đó, Tôn giả Bàn Đặc uy nghi rạng rỡ, thần thái khác thường.
Vua Ba Tư Nặc thắc mắc về nhân duyên giác ngộ của Bàn Đặc và Đức Phật đáp: “Học không cần phải nhiều, chủ yếu là phải thực hành những gì đã học. Bàn Đặc hiểu nghĩa một bài kệ, thâm nhập nghĩa lý, thân khẩu ý vắng lặng, thanh tịnh như vàng ròng cõi trời. Người học nhiều mà lại không hiểu nghĩa, không thực hành, chỉ uổng tâm nhọc trí, nào có ích gì?”.
Như vậy, Ngài Bàn Đặc chỉ hiểu và thực hành một bài kệ, đã thanh tịnh thân, khẩu, ý và đạt đạo. Sau đó, Đức Phật liền đọc bài kệ. Nghe xong, ba trăm vị Tỳ-kheo cùng chứng quả A-la-hán. Vua cùng quần thần, phu nhân, thái tử hoan hỷ, y giáo phụng hành.
Đức Phật giải thích về sự chứng đạo của Tôn giả Bàn Đặc khiến ba trăm vị Tỳ-kheo cùng chứng quả A-la-hán (ảnh minh họa)
Bài học từ sự giác ngộ của Tôn giả Bàn Đặc
1. Niệm ân đức và trú trong hạnh vâng lời sẽ phát sinh trí tuệ
Tuy hàng ngày, ông Bàn Đặc không thuộc được bài kệ nhưng vẫn cảm niệm được ân đức của Đức Phật - vị Thầy đã từ bi sai năm trăm vị A-la-hán đến dạy ông. Và mỗi ngày, hạt giống tri ân được tưới tẩm, bén rễ và dần nảy mầm trong tâm ông. Cho nên, mỗi Phật tử hay hành giả tu hành muốn tâm ân được tròn đầy thì phải suy niệm về ân qua những điều mình đang được thọ hưởng.
Đức Phật không dạy ông Bàn Đặc ngay từ buổi đầu, bởi Ngài hiểu rõ căn cơ. Ngài biết tâm niệm ân của Bàn Đặc chưa đủ lớn. Suốt ba năm, Ngài cho các vị A-la-hán dạy ông để từng ngày thấy bản thân còn ngu dốt nhưng vẫn được dạy dỗ một cách kiên trì. Cảm niệm ân ấy lớn dần, cho đến khi tròn đầy - lúc ấy, Đức Phật mới trực tiếp thuyết kệ. Nghe được lời Phật, ông Bàn Đặc liền được hoan hỷ, từ đó phát sinh trí tuệ và hết lòng phụng hành.
Phàm phu như chúng ta cũng vậy. Dù gặp được vị Thầy rất tốt, nhiều khi nghe giảng lại sinh tâm chống trái. Phải trải qua nhiều năm tu học, tự thân cảm nhận được lợi ích từ Thầy đem lại thì tâm ân của chúng ta mới bắt đầu nảy sinh và lớn lên dần. Tiếp tục duy trì tâm ân ấy đến khi đủ đầy, chúng ta mới thật sự hoan hỷ phụng hành.
Sau khi Tỳ-kheo Bàn Đặc thuộc được bài kệ, Đức Phật nói tiếp: “Ông tuổi đã lớn mới thuộc được một bài kệ thông thường ai cũng biết, đây chẳng có gì là kỳ đặc. Ta nay sẽ giảng giải cho ông nghe nghĩa lý của bài kệ này, hãy nhất tâm lắng nghe”. Bàn Đặc vâng lời, nhất tâm lắng nghe. Ở đây chính là hạnh vâng lời - khi tâm ấy sinh khởi, tâm ngã mạn liền tiêu trừ, diệt đi và không sinh nữa.
Tức là pháp bất thiện chưa sinh thì không làm cho sinh khởi, pháp thiện chưa sinh thì làm cho được sinh khởi và tăng trưởng. Đức Phật đã giúp cho Tôn giả Bàn Đặc không sinh tâm bất thiện (tâm ngã mạn), sau đó lại hướng tâm cho ông vào trú tâm, tăng thượng tâm lên (có hạnh vâng lời). Nhờ đó, khi nghe Đức Thế Tôn giảng nói vô lượng diệu Pháp, Tôn giả tâm trí khai ngộ, liền chứng quả A-la-hán.
Như vậy, lộ trình tu tập của hành giả tu tập để phát sinh trí tuệ rất rõ ràng: Thứ nhất là niệm ân đức, thứ hai là đạt được kết quả, thứ ba là phải loại trừ tâm ngã mạn sinh ra từ kết quả đó, thứ tư là quay về trú tâm trong hạnh vâng lời.
Nhờ niệm ân đức của Đức Phật một cách tròn đầy và thực hành hạnh vâng lời, Tôn giả Bàn Đặc tâm trí khai ngộ, liền chứng quả A-la-hán (ảnh minh họa)
2. Khiêm tốn để làm phương tiện hóa độ người khác
Khi Tôn giả Bàn Đặc đến để giảng Pháp cho năm trăm Tỳ-kheo Ni. Lúc đó, Ngài đã là bậc chứng đắc và thấy các vị Ni chưa có tâm cung kính với Ngài, vẫn nghĩ Ngài ngu si như xưa. Cho nên, để tâm của các vị Tỳ-kheo Ni được tốt đẹp hơn, Ngài đã nói rằng: “Tôi là kẻ đức bạc tài sơ, chưa xứng làm bậc Sa-môn, tính tình lại ám độn, không học hành chi nhiều, chỉ biết một bài kệ và hiểu sơ ý nghĩa của nó. Nay sẽ vì các vị giải nói, xin hãy nhất tâm nghe”.
Cách hành xử của bậc Thánh là như vậy: Khi biết người khác cao ngạo, các Ngài sẽ hạ mình, khiêm tốn để giúp họ tạm thời xa rời tâm kiêu ngạo và khinh miệt. Chỉ khi tâm buông xuống sự kiêu ngạo thì mới có thể lắng nghe được.
Nếu lúc ấy, Tôn giả Bàn Đặc khẳng định bản thân đã chứng đạo thì có lẽ các vị Ni vì tâm ngã mạn mà khởi lên suy nghĩ, lời nói không tốt; như vậy, họ sẽ bị quả báo. Chính vì thế, bậc Thánh là bậc có trí tuệ nên các Ngài thực hành từ bi tâm rất dễ dàng, vì các Ngài quán biết được căn cơ của chúng sinh. Các Ngài biết khi nào cần hiển bày đạo hạnh, khi nào nên ẩn mình. Tất cả đều vì lợi ích của chúng sinh.
3. Người tu là người chuyển hóa liên tục
Người tu là người chuyển hóa từng ngày, từng giờ,... Những gì trong quá khứ thuộc về quá khứ. Cho nên, chúng ta cần phải bỏ đi tính chấp trước.
Bạn đồng tu của chúng ta cũng vậy. Khi họ nghe giảng Pháp, thực hành Pháp, tâm họ đã đổi khác. Nếu cứ chấp lỗi cũ của người khác thì đó là mình đang chấp trước.
Như người gác cổng của nhà vua - vì chấp trước, ngu si, vẫn khinh thường Tôn giả Bàn Đặc ngu tối, không có trí tuệ nên đã không cho Tôn giả vào cung. Đó chính là bài học cho mỗi chúng ta không đánh giá, chấp vào lỗi cũ của người.
Người gác cổng nhà vua – vì chấp trước, khinh thường Tôn giả Bàn Đặc nên đã không cho Tôn giả vào cung (ảnh minh họa)
Từ một người bị khinh chê là ngu tối, Bàn Đặc trở thành bậc A-la-hán chỉ nhờ một bài kệ khi niệm ân đức của Đức Phật một cách tròn đầy và thực hành hạnh vâng lời.
Câu chuyện của Tôn giả Bàn Đặc là minh chứng cho thấy rằng: Dù ngu si đến đâu, nếu có lòng biết ơn, vâng lời và hết lòng phụng hành bậc Thầy chân chính, thực hành lời dạy của Thầy thì vẫn có thể khai mở trí tuệ, đạt đến an lạc, giải thoát.
Mong rằng câu chuyện về Tỳ-kheo Bàn Đặc sẽ giúp mỗi chúng ta thêm niềm tin vào Phật Pháp, vâng lời, thực hành lời dạy của Đức Phật để từng bước đạt được an lạc, hạnh phúc, dần dần hướng đến tu hành cầu giải thoát.
Xem thêm các bài:
- Kinh Phật Độ Bàn Đặc
- Tôn giả Đại Ca Diếp: Bỏ vinh hoa phú quý, trở thành đệ nhất đầu đà
- Angulimala là ai? Hành trình kỳ diệu từ tướng cướp thành Thánh nhân
- Đệ tử cuối cùng của Đức Phật – Tu Bạt Đà La: Từ du sĩ ngoại đạo đến Thánh quả
- Tôn giả Nan-đà: Từ bậc vương giả đến bước ngoặt xuất gia chứng Thánh quả
- Thánh Ni Liên Hoa Sắc: Hành trình từ kỹ nữ thành A-la-hán
Bình luận













Quản trị trang
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Quản trị trang và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.