Chương Thứ Bảy
Nói Rõ Quả Bảo
(tiếp)
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện xin chư Phật, chư Đại Bồ Tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sanh đang chịu khổ, dùng sức thần thông diệt trừ ác nghiệp cho các chúng sanh, hoàn toàn không đọa trở lại trong ba đường khổ, đến được chỗ an vui thanh tịnh, sinh ra chỗ nào cũng được thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng tận. Xả thân thọ thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ Tát thành đẳng Chánh giác.
Tín Tướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Lại có chúng sanh ở trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng chạy đến thì cửa liền tự đóng, chạy khắp đông tây cũng không ra được, bị lửa thiêu sạch. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Phật đáp: “Vì đời trước làm người thiêu đốt rừng núi, phá vỡ bờ đê, chiên rán các thứ trứng gà, vịt làm cho chúng sanh bị thiêu, bị đốt mà chết nên phải mắc tội như vậy”.
- Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết Sơn bị gió lạnh thổi, da thịt nức nở, cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Người ấy đời trước làm giặc, đón đường bóc lột áo quần người khác để tự tư dưỡng, mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác, làm cho họ phải chết lạnh và lột da xẻ thịt trâu dê, làm cho chúng sanh đau khổ vô lượng. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
Phật đáp: “Vì người ấy đời trước làm nghề sát sinh, phanh thây xẻ thịt chúng sanh, cắt xẻo bóc lột, cốt nhục chia lìa, đầu mình tan rã, treo lên trên cao, cân lường mà bán, hoặc treo sống mà bán, đau đớn vô cùng, chúng sanh không thể chịu nổi. Vì nhân duyên ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy”.
- Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn chim bắn thú, hoặc bắn bể đầu, hoặc bẫy đứt chân, nhổ sống lông cánh, làm chúng sanh đau khổ vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhân duyên ấy nên phải mắc tội như vậy”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nghe lời Kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ nguyện vì hết thảy chúng sanh trong
mười phương, hoặc đã chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tịnh Quang Phật.
Nam mô Bảo Vương Phật.
Nam mô Thọ Căn Hoa Vương Phật.
Nam mô Duy Vệ Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Khai Hóa Bồ Tát Phật.
Nam mô Kiến Vô Khủng Cụ Phật.
Nam mô Nhất Thừa Độ Phật.
Nam mô Độc Nội Phong Nghiêm Vương Phật.
Nam mô Kim Cang Kiên Cường Tiêu Phục Hoại Tán Phật.
Nam mô Bảo Hỏa Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Minh Phật.
Nam mô Hiền Tối Phật.
Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ Phật.
Nam mô Hoại Ma La Võng Độc Bộ Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Lực Phật.
Nam mô Bi Tinh Tấn Phật.
Nam mô Kim Bảo Quang Minh Phật.
Nam mô Vô Lượng Tôn Phong Phật.
Nam mô Độc Thủ Phật.
Nam mô Dược Vương Bồ Tát.
Nam mô Dược Thượng Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện xin Tam Bảo đem lòng đại từ, đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh trong mười phương khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải thoát; chúng sanh sẽ chịu khổ hoàn toàn đoạn trừ phiền não, rốt ráo không sa đọa trở lại trong ba đường ác nữa.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, trừ sạch ba nghiệp chướng, diệt hết năm sợ hãi; hoàn toàn đầy đủ công đức trang nghiêm; nhiếp hóa hết thảy chúng sanh hướng về Vô thượng đạo, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:
Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Lại có chúng sanh què trệt, lưng
cong, tay chân co quắp, không thể cầm nắm, không thể đi đứng. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Phật đáp: “Vì đời trước làm người độc ác, để binh khí giữa đường, đặt súng đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy”.
- Lại có chúng sanh bị các ngục tốt trói buộc thân thể, gông cùm khổ ách, không thể thoát được. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước người ấy chài lưới chúng sanh, buộc nhốt lục súc, hoặc làm chủ tể, quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét, giam oan người vô tội, lương thiện oán hận không biết kêu ai. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy”.
- Lại có chúng sanh hoặc điên, hoặc si, hoặc cuồng, hoặc sợ, không phân biệt được tốt xấu. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, loạn trí loạn tâm, phạm ba
mươi sáu lỗi nên đọa làm người ngu si, cũng như người say không phân biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy”.
- Lại có chúng sanh thân lùn, hình nhỏ, âm tạng rất lớn, thả xuống thì thân đau, phải vắt ra sau lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước buôn bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận thước tấc). Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ nguyện vì hết thảy chúng sanh đã chịu khổ; hết thảy chúng sanh sẽ phải chịu khổ, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha mẹ, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp
trong mười phương mà quy y Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Vô Số Tinh Tấn Hưng Phong Phật.
Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật.
Nam mô Vô Ngu Phong Phật.
Nam mô Nguyệt Anh Phong Phật.
Nam mô Vô Dị Quang Phong Phật.
Nam mô Nghịch Không Quang Minh Phật.
Nam mô Tối Thanh Tịnh Vô Lượng Phan Phật.
Nam mô Hiếu Đế Trú Duy Vương Phật.
Nam mô Thành Tựu Nhất Thế Chư Sát Phong Phật.
Nam mô Tịnh Huệ Đức Phong Phật.
Nam mô Tịnh Luân Phan Phật.
Nam mô Lưu Ly Quang Tối Phong Phật.
Nam mô Bảo Đức Bộ Phật.
Nam mô Tối Thanh Tịnh Đức Bảo Trú Phật.
Nam mô Độ Bảo Quang Minh Tháp Phật.
Nam mô Vô Lượng Tàm Quý Kim Tối Phong Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Đệ tử chúng con tên... ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ Tát lực, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đảnh lễ quy y cầu xin sám hối.
Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát, liền được giải thoát.
Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác, xa lìa tám nạn khổ, bẩm thọ tám phước sinh; được các căn lành, thành tựu bình đẳng, đầy đủ trí huệ, thành tựu biện tài, thanh tịnh tự tại, cùng với chư Phật thành bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nên biết dụng tâm, lắng lòng mà nghe.
Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, lại có chúng sanh, hình trạng rất xấu, thân đen như mực, hai tai lại xanh, hai vai nổi lên, mặt phẳng, mũi dẹp, mắt đỏ vàng ngầu, răng nướu thưa sún, hơi miệng tanh hôi, vế ngắn và ung thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp; xương sườn, xương sống nổi lên, tốn vải, ăn nhiều; ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ nhơ nhớp; bệnh thủy thủng, càn tiêu, phong hủi, ung thư, bao nhiêu điều ác độc hung dữ đều dồn vào thân. Dầu muốn thân cận, người không để ý. Nếu người khác làm tội, vô cớ mình cũng liên can mang họa. Hằng không được thấy Phật, nghe Pháp, không biết Bồ Tát không biết Thánh Hiền. Ra vào nơi đau khổ, không bao giờ cùng. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?”
Phật dạy: “Vì đời trước làm con bất hiếu với cha mẹ; làm tôi không trung chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không biết kính kẻ trên, không thành thật, không thủ tín với bạn bè, không nhân nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong sự xử đoán, không có độ lượng mà
lòng dạ đảo điên, sát hại quần thần; khinh khi tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phá lũy, cướp giựt trộm cắp, ác nghiệp vô lượng.
Lại khen mình chê người, xâm lấn già nua, lấn hiếp cô độc; báng bổ người hiền, khinh mạn sư trưởng; khi dối kẻ hạ tiện.
Tóm lại là phạm hết thảy tội. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải ác báo, tội nghiệp như vậy”.
Lúc bấy giờ, những người bị tội nghe Phật dạy như vậy, khóc lóc động địa, nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: “Nguyện xin Thế Tôn sống mãi ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng con mong được giải thoát”.
Phật đáp: “Nếu Ta sống mãi ở đời, những người bạc phước, không trồng căn lành. Họ bảo Ta còn sống mà không lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô lượng tội ác, sau ăn năn không kịp.
Thiện nam tử ôi! Ví như con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ đến sự gặp mẹ là khó. Lúc nào mẹ đi vắng, con mới liền sinh tâm nhớ tưởng, khao khát
luyến mẹ. Lúc ấy mẹ trở lại con mới vui mừng.
Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy. Ta biết chúng sanh không tìm cầu sự thật, thường trú chơn tâm, cho nên Ta nhập Niết bàn.
Lúc bấy giờ, Phật đối trước những chúng sanh đang chịu tội đó mà nói bài kệ rằng:
Nước chảy không thường đầy, Lửa mạnh không thường đốt, Mặt trời mọc rồi lặn, Mặt trăng tròn rồi khuyết, Sự tôn trọng giàu sang, Càng vô thường hơn nữa, Nghĩ lại phải siêng năng, Đảnh lễ ngôi Tam Bảo.
Lúc bấy giờ, Phật nói lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầu mà bạch Phật rằng: “Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà xa lìa được những tội khổ ấy?”
Phật dạy: “Này thiện nam tử! Phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, quy y Tam Bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không có thân sơ, không khinh người già nua, cô quả, không khinh kẻ nghèo hèn, ủng hộ người như giúp đỡ mình, không có tâm ác đối với người.
Nếu các người hay tu hành được như vậy thời cũng đã là báo được ơn chư Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa”.
Phật dạy kinh này rồi, các vị đại Bồ Tát liền được quả Vô thượng Bồ đề. Các hàng Thanh Văn, Duyên Giác liền chứng được lục thông, tam minh và tám pháp giải thoát.
Còn các đại chúng khác đều được pháp nhãn tịnh.
Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh này thì không đọa vào ba đường ác, và không mắc phải tám nạn, địa ngục trống rỗng, thống khổ không còn.
Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này gọi là kinh gì? Bồ Tát Ma ha tát phải phụng trì bằng cách nào?”
Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát: “Thiện nam tử! Kinh này gọi là “Báo ứng giáo hóa Địa
ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công đức vô lượng”.
Bấy giờ, đại chúng nghe Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng lời làm theo.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy, rất đáng sợ hãi, sinh tâm từ bi, nương nhờ thần lực của chư Phật, tu đạo Bồ Tát nhớ địa ngục khổ, phát tâm Bồ đề, vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ, ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngạ quỷ, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường súc sinh; rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương hiện đang chịu khổ trong sáu đường; nhất tâm nhất ý, vì những chúng sanh ấy mà sám hối, khiến chúng sanh được giải thoát.
Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển họa thành phước, thì ở trong mỗi mỗi địa ngục, đại chúng đều có tội phần.
Cùng nhau chí tâm nghĩ đến cha mẹ, sư trưởng, bà con thân thích, sẽ chịu khổ báo
về sau và cũng nghĩ đến tự thân đại chúng hiện tại và vị lai cũng phải chịu khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng, nguyện xin một niệm cảm thấu mười phương Phật; một lạy đoạn trừ vô lượng tội khổ. Những chúng sanh đã chịu khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu đường chúng sanh nào chưa chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn đoạn trừ sáu đường đau khổ. Từ nay trở đi rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác; trừ ba nghiệp chướng, tùy ý vãng sanh, diệt trừ năm điều sợ hãi, tự tại giải thoát, siêng tu đạo nghiệp, không thôi không nghỉ. Diệu hạnh trang nghiêm quá Pháp Vân địa, vào Kim cang tâm, thành đẳng Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng lại nhất tâm lưu ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ:
Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỷ bạch với ngài Mục Liên rằng:
“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm học trò nhà hàng thịt, khi giết trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói buộc mà lôi kéo. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội báo mới nụ hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
- Lại có một con quỷ khác bạch ngài Mục Liên rằng: “Thân hình tôi như một khối thịt, không có tay chân, tai, mắt, mũi, lưỡi v.v... Thân thường bị trùng rúc chim mổ, cắn rứt mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi cho người uống thuốc độc đọa thai, phá sản, khiến chúng sanh mạng sống không hoàn toàn. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
- Lại có một con quỷ bạch ngài Mục Liên rằng: “Bụng tôi thật lớn, yết hầu như kim.
Cùng năm mãn kiếp không thể ăn uống. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm chủ làng xóm, tự ỷ mình hào quý, say sưa tung hoành, khinh khi kẻ khác, cướp giựt thức ăn uống của người làm cho đói khát, khốn khổ hết thảy nhân dân. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.
- Lại có một con quỷ bạch ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, có hai vành sắt nóng ở dưới hai nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy hai cái, kẹp dưới hai nách. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội mới đơm hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
- Lại có một con quỷ, bạch ngài Mục Liên rằng: “Tôi thường lấy đồ tự bao bọc đầu lại, sợ người đến giết, sinh tâm sợ hãi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm ngoại sắc, thường sợ người thấy,
hoặc sợ chồng con người bắt được trói trăn, đánh giết, thường ôm lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội này. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nghe lời Kinh dạy, đâu được không sợ hãi.
Từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã làm vô lượng tội ác như thế. Những tội ấy đều do vì không có tâm từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu, tổn hại chúng sanh, cho đến tội trộm cắp của người, mê hoặc, vô đạo, nịnh hót bài báng người hiền lành, gây biết bao tội lỗi.
Những tội báo như vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba đường dữ.
Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay thế cho hết thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo trong sáu đường, đang chịu khổ trong sáu đường mà cầu xin sám hối.
Cũng nguyện xin thay thế cho cha mẹ, sư trưởng và hết thảy bà con quyến thuộc
mà cầu xin sám hối và cũng tự vì bản thân mà cầu xin sám hối.
Những tội đã làm, nguyện xin trừ diệt hết. Những tội chưa làm, không dám làm nữa.
Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật.
Nam mô Tịnh Bảo Hưng Phong Phật.
Nam mô Điện Đăng Phan Vương Phật.
Nam mô Pháp Không Đăng Phật.
Nam mô Nhất Thế Chúng Đức Thành Phật.
Nam mô Hiền Phan Tràng Vương Phật.
Nam mô Nhất Thế Bảo Trí Sắc Trì Phật.
Nam mô Đoạn Nghi Bạc Dục Trừ Minh Phật.
Nam mô Ý Vô Khủng Cụ Oai Mao Bất Thọ Phật.
Nam mô Sư Tử Phật.
Nam mô Danh Xưng Viễn Văn Phật.
Nam mô Pháp Danh Hiệu Phật.
Nam mô Phụng Pháp Phật.
Nam mô Pháp Tràng Phật.
(Trang 199)
Nam mô Tu Di Đăng Quang Minh Phật.
Nam mô Bảo Tạng Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Chiên Đàn Ma Ni Quang Phật.
Nam mô Kim Hải Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Đại Bi Quang Minh Vương Phật.
Nam mô Ưu Bát La Liên Hoa Thắng Phật.
Nam mô Liên Hoa Tu Trang Nghiêm Vương Phật.
Nam mô Kim Cang Kiên Cường Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Thù Thắng Nguyệt Vương Phật.
Nam mô Nhật Nguyệt Quang Vương Phật.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát.
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ Tát.
Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện xin Tam Bảo rũ lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện đang chịu khổ, và sẽ chịu khổ trong sáu đường, khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát, đem sức thần
(Trang 200)
thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục, khiến các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hoàn toàn không đọa trở lại trong đường ác, xả thân khổ báo, được thân Kim cang, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, thường được hiện tiền; tứ vô ngại biện, sáu sức thần thông như ý tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến khi mãn hạnh Thập Địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.
Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp
Quyển Thứ Ba
Hết
===
Bình luận
Ban quản trị
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Ban Quản trị và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.