Phẩm “Dược Vương Bồ Tát bổn sự" thứ hai mươi ba
1. Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát dạo đi nơi cõi Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát đó, có bao nhiêu nghìn muôn ức na-do-tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nguyện giải nói cho một ít, các hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-Thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn cùng Phi nhơn v.v..., và các vị Bồ Tát ở các nước khác đến cùng chúng Thanh-văn đây nghe đều vui mừng”.
2. Lúc đó, Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: “Về thuở quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp về trước, có Phật, hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng hà sa chúng đại Thanh-văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ Tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la v.v..., và với các khổ nạn. Đất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu trùm trên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương khắp cùng cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn tên. Các cây báu đó đều có Bồ Tát, Thanh-văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỹ nhạc trời, ca khen Đức Phật để làm việc cúng dường.
3. Bấy giờ, Đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh-văn nói Kinh Pháp Hoa.
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở trong pháp hội của Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, tinh tấn Kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn hai nghìn năm đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân Tam muội”.
Đặng Tam muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng: Ta đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân Tam muội” này đều là do sức đặng nghe Kinh Pháp Hoa, Ta nay nên cúng dường Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và Kinh Pháp Hoa.
Tức thời nhập Tam muội đó, ở giữa hư không rưới bông Mạn-đà-la, bông Ma-ha Mạn-đà-la, cùng bột Kiên hắc Chiên đàn đầy trong hư không như mây mà rưới xuống. Lại rưới hương Hải thử ngạn Chiên đàn, sáu thù(8) hương này giá trị cõi Ta-bà để cúng dường Phật.
Cúng dường thế đó rồi, từ Tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: “Ta dầu dùng thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường”. Liền uống các chất thơm: Chiên đàn, Huân lục, Đâu-lâu-bà, Tất-lực-ca, Trầm thủy giao hương; lại uống dầu thơm các thứ bông Chiêm-bặc v.v... mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân, ở trước Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật dùng y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân.
Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các Đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Đó là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và hương Hải thử ngạn Chiên đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng được.
Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện nam tử! Đó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn rất thượng, bởi dùng pháp cúng dường các Đức Như Lai vậy”, các Đức Phật nói lời đó rồi đều yên lặng. Thân của Bồ Tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ Tát mới hết.
4. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, làm việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ở nơi nhà vua Tịnh Đức bỗng nhiên ngồi xếp bằng hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
Đại vương nay nên biết!
Tôi Kinh hành chốn kia
Tức thời đặng nhứt thiết
Hiện chư thân Tam muội
Siêng tu rất tinh tấn
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường Đức Thế Tôn
Để cầu huệ vô thượng.
Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: “Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật xong, đặng “Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn Đà-la-ni” lại nghe Kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức Na-do-tha, Chân-ca-la, Tần-bà-la, A-súc-bà, (A) các bài kệ”.
Đại Vương! “Tôi nay lại nên cúng dường Đức Phật đó”. Thưa xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, qua đến chỗ Phật đầu mặt lạy chân, chắp tay nói kệ khen Phật:
Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy.
5. Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nói kệ xong mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?”.
Bấy giờ, Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử! Giờ Ta nhập Niết-bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên sắp đặp giường tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn”.
Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng đem cõi thất bảo Tam thiên Đại thiên, các cây báu, đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.
Sau khi Ta diệt độ có bao nhiêu Xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp”.
Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập Niết-bàn.
6. Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thấy Phật diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng Hải thử ngạn Chiên đàn làm giàn để cúng dường thân Phật mà thiêu đó.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy Xá lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu, để xây tám muôn bốn nghìn tháp, cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm, thòng các phan lọng, treo các linh báu.
Bấy giờ ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: “Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên cúng dường Xá lợi”. Liền nói với các Bồ Tát đại đệ tử và trời, rồng, Dạ-xoa v.v..., tất cả đại chúng rằng: “Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường Xá lợi của Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật”. Nói xong, liền ở trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh-văn, vô lượng vô số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều làm cho trụ trong “Hiện nhứt thiết sắc thân Tam muội”.
Lúc đó, các Bồ Tát, trời, người, a-tu-la v.v…, thấy ngài không có tay bèn sầu khổ buồn thương mà nói rằng: “Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát này là thầy chúng ta, giáo hoá chúng ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ”.
Lúc ấy, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong đại chúng lập lời thề rằng : “Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ”. Nói lời thề xong, hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ Tát cảm nên.
Đương lúc đó, cõi Tam thiên Đại thiên thế giới sáu điệu vang động, Trời rưới hoa báu, tất cả Người, Trời đặng việc chưa từng có.
7. Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: “Ý ông nghĩ sao? Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đâu phải người nào lạ, chính nay là ông Dược Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na-do-tha như thế.
Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chân để cúng dường pháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi Tam thiên Đại thiên; núi rừng, sông, ao, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi Tam thiên Đại thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ Tát, Duyên-giác và A-la-hán, công đức của người đó đặng, chẳng bằng người thọ trì Kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này rất nhiều.
8. Tú Vương Hoa! Thí như trong các dòng nước: sông, ngòi, kinh, rạch, thời biển là lớn thứ nhất; Kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các Kinh của Đức Như Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu Thiết-vi, núi đại Thiết-vi cùng mười núi báu, thời núi Diệu-cao là bậc nhứt, Kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các Kinh rất là bậc thượng.
Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bậc nhứt, Kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong nghìn muôn ức các Kinh pháp, rất là sáng.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, Kinh này cũng thế, hay phá tất cả sự tối bất thiện.
Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển Luân Thánh vương rất là bậc nhứt, Kinh này cũng như thế, ở trong các Kinh là bậc tôn hơn cả.
Lại như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi Trời(9), Kinh này cũng thế, là vua trong các Kinh.
Lại như trời đại Phạm Thiên vương là cha của tất cả chúng sanh, Kinh này cũng thế, là cha của tất cả Hiền Thánh: bậc hữu học, vô học cùng hàng phát lòng Bồ-đề.
Lại như trong tất cả phàm phu thời bậc Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-lai, Vô-sanh, Duyên-giác(10) là bậc nhứt, Kinh này cũng thế, tất cả Như Lai nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh-văn nói, trong các Kinh pháp là bậc nhứt hơn cả, có người thọ trì được Kinh điển này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sanh cũng là bậc nhứt.
Trong tất cả Thanh-văn cùng Duyên-giác, Bồ Tát là bậc nhứt, Kinh này cũng thế, trong tất cả các Kinh pháp rất là bậc nhứt.
Như Phật là vua của các pháp, Kinh này cũng thế, là vua của các Kinh.
9. Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, Kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, Kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y phục, như người buôn đặng chủ(11), như con gặp mẹ, như qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của báu, như dân gặp vua(12), như khách buôn đặng biển(13), như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng thế, có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Nếu người nghe đặng Kinh Pháp Hoa này, hoặc chép, hoặc bảo người chép, đặng công đức, dùng Trí huệ của Phật, tính lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép Kinh sách này, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, y phục; các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm: đèn dầu Chiêm-bặc, đèn dầu Tu-mạn-na, đèn dầu Ba-la-la, đèn dầu Bà-lợi-sư-ca, đèn dầu Na-bà-ma-lợi đem cúng dường, đặng công đức cũng là vô lượng.
10. Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” này, cũng đặng vô lượng vô biên công đức.
Nếu có người nữ nghe phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại nữa.
Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe Kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của Đức A Di Đà Phật(14) cùng chúng đại Bồ Tát vây quanh, mà sanh trên tòa báu trong hoa sen.
Chẳng còn lại bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng giận dũi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông Vô sanh Pháp nhẫn của Bồ Tát, đặng Pháp nhẫn đó rồi thời nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật Như Lai.
Bấy giờ, các Đức Phật đồng nói khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì đọc tụng suy gẫm Kinh này vì người khác nói, ông đặng công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông, nghìn Phật chung nói chẳng thể hết đặng. Ông nay đã có thể phá các giặc ma, hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt”.
Thiện nam tử! Trăm nghìn các Đức Phật dùng sức Thần thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả Trời, Người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các Đức Như Lai; bao nhiêu thiền định trí huệ của các Thanh-văn, Duyên-giác, nhẫn đến Bồ Tát không có ai bằng ông.
Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.
11. Nếu có người nghe phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” này mà có thể tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong đời hiện tại trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh, trong lỗ chân lông nơi thân, thường thoảng ra mùi thơm Ngưu đầu Chiên đàn, đặng công đức như đã nói ở trên.
Tú Vương Hoa! Vì thế Ta đem phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” này chúc lũy cho ông. Năm trăm năm sau khi Ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà, v.v... phá khuấy đặng.
Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn Kinh này. Vì sao? Vì Kinh này là món lương dược của người bịnh trong cõi Diêm-phù-đề; nếu người có bịnh đặng nghe Kinh này bịnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì Kinh này, phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người đó. Rải xong nghĩ rằng: “Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các ma quân, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, chết.
Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì Kinh điển này, nên phải sanh lòng cung kính như thế.
12. Lúc Đức Phật nói phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” này, có tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đặng pháp “Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn Đà-la-ni”.
Đức Đa Bửu Như Lai ở trong tháp báu, khen ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát rằng: “Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất khả tư nghị công đức mới có thể hỏi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh”.
-- HẾT PHẨM HAI MƯƠI BA--
>>> Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Quyển thứ bảy - Phẩm “Diệu Âm Bồ Tát" thứ hai mươi tư
THÍCH NGHĨA
(8) Hai mươi bốn “thù” làm một lượng.
(9) Đế Thích: Trên chót núi Tu Di (Diệu Cao sơn) bằng phẳng, bốn phương có 32 nước trời, mỗi nước đều có một vị Thiên vương quản trị. Trung ương có một nước trời. Ông Thích Đề Hoàn Nhơn (Đế Thích) ở trong đây, quyền quản lãnh cả 33 nước trời hợp lại là trời “Đao Lợi”.
(10) Dự Lưu: Người tu hành theo Phật pháp phá 88 món “kiến sở đoạn hoặc” thời rời phàm phu dự vào hàng Thánh nên gọi “Dự Lưu”.
Cõi Dục có 9 phẩm “tư hoặc”, cõi Sắc có 36 phẩm “tư hoặc”, cõi Vô sắc có 36 phẩm “tư hoặc” cộng là 81 phẩm “tư hoặc”. Sau khi phá hết 88 món “kiến hoặc”, tu hành lần lần phá “tư hoặc”. Trong 9 phẩm cõi dục, phá được 6 phẩm trước thời chứng bậc “Tư-đà-hàm” (Nhứt Lai) nghĩa là còn một lần sanh xuống nhơn gian. Phá cả 9 phẩm, thời không còn sanh xuống nhơn gian nữa nên gọi “Bất Lai” (A-na-hàm). Phá cả 81 phẩm tư hoặc thời dứt hẳn sanh tử luân hồi nên gọi “Vô-sanh” (A-la-hán).
(11) Thương chủ: người dẫn đạo cho các con buôn.
(12) Vua: Vị cai trị một nước, người đem sự an ninh cho dân chúng.
(13) Biển: Xưa các người buôn châu báu thường ra biển tìm châu báu.
(14) Cõi An Lạc: Tức là nước Cực Lạc ở Tây phương Đức giáo chủ là Đức Phật A Di Đà.
(A) Tên những con số lớn của xứ Ấn Độ xưa từ nghìn muôn ức sắp lên. Như một Chân-ca-la: Một nghìn muôn ức.
SỰ TÍCH
TỤNG KINH THOÁT NỮ THÂN
Đời Tuỳ, huyện Bác Lăng, có ông Thôi Ngạn Võ, niên hiệu Khai Hoàng làm quan Thứ sử châu Ngụy. Một hôm, nhơn đi thanh tra trong địa phận mình quản lý, đến một ấp nọ, bỗng ngạc nhiên vừa sợ vừa mừng; bảo kẻ tùng giả rằng: “Ta xưa từng làm vợ người ở trong ấp này, nay vẫn biết nhà cũ”. Liền cỡi ngựa đi vào đường hẻm trong ấp, quanh quẹo đến một nhà, sai người gõ cửa. Ông chủ nhà đó đã già chạy ra lạy chào.
Ông Ngạn Võ vào nhà chỉ trên vách phía Đông cách đất chừng năm sáu thước (thước tàu) có chỗ lồi cao lên mà bảo chủ nhà rằng “Chỗ trên cao đó là chỗ mà ta xưa kia cất năm đôi thoa vàng, với bộ Pháp Hoa của ta đọc hàng ngày. Bộ Kinh ấy cuối quyển bảy, lửa cháy xém mất chữ hết một tờ. Vì cớ đó nên hiện nay mỗi khi ta tụng Kinh Pháp Hoa đến trang đó, thường quên lãng không nghi nhớ đặng”. Nói xong sai người đục chỗ vách đó ra, quả thật đặng hộp đựng Kinh, thoa vàng cùng quyển thứ bảy cháy xém một tờ cuối quyển đúng như lời nói trước.
Ông chủ nhà rơi nước mắt khóc rằng: “Thoa vàng cùng Kinh quả thật là vật của vợ tôi, ngày còn sanh tiền, vợ tôi thường đọc bộ Kinh Pháp Hoa này”.
Ông Ngạn Võ lại nói: “Cây hòe trước sân kia ngày trước khi ta sắp sanh, tự cổi đầu tóc mượn để vào bọng cây đó”. Nói xong bảo người thử lại tìm, thật quả đặng tóc.
Chủ nhà thấy việc như thế, biết chính quan Thứ Sử hiện nay là vợ của mình ngày trước tái sanh vừa buồn vừa mừng.
Thôi Ngạn Võ để đồ vật vàng bạc lại, hậu cấp cho ông chủ nhà mà đi.
(Lai bộ Thượng thơ Đường Lâm biên)
“Trong phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” có nói: Nếu có người nữ nào nghe Kinh này mà có thể thọ trì, thời sau khi bỏ báo thân đàn bà đó, không còn thọ lại nữa”. Chuyện của ông Thôi Ngạn Võ trên đây đủ chứng thật lời trong Kinh. Làm cho chúng ta lại càng kính tin Đức Như Lai là Đấng chơn thật ngữ.
Một người đàn bà vợ tên dân quê ở trong ấp cùng đọc Kinh Pháp Hoa mà đã sớm khỏi thân hèn khổ chuyển thành thân quan cao tước lớn, trong khi ấy người chồng vẫn còn là tên dân quê. Chồng lại rước quan lớn, nào biết đó là vợ cũ của mình ngày xưa.
Tên dân quê đó cùng một ít kẻ lân cận, khi người đàn bà đọc Kinh Pháp Hoa chết, hoặc giả, lại có niệm nghĩ rằng: “Tụng Kinh không phước, trái lại bị chết yểu”. Niệm ngu si, lòng chê Kinh ấy, khi gặp Thôi Ngạn Võ như tuyết gặp nước sôi vậy.
Ôi! Công đức bất khả tư nghì của người trì Kinh, diệu dụng bất khả tư nghì của Kinh, cùng lý nhơn quả nhiệm mầu, kẻ tâm vụng về, trí thức thô thiển có thể nào mà thấu đáo được. Tôi rất lo ngại cho hạng người bác nhơn quả, huỷ báng Kinh Đại thừa và thiết tha mong sao những hạng người ấy không nên quá nông nổi.
Vì khổ báo của người huỷ báng Kinh, Đức Phật Thế Tôn Đấng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thật ngữ đã có huyền ký rõ ràng.
(Xem đoạn cuối phẩm Thí Dụ quyển hai)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Đời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP vưng chiếu dịch
Bình luận
Ban quản trị
- Chủ quyền của đất nước;
- Các vấn đề về chính trị;
- Các phát ngôn cho mục đích hoặc có dấu hiệu chống lại Đảng, Nhà nước, chia rẽ và gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo;
- Vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Cho mục đích trên, chúng tôi tuyên bố có quyền xóa, gỡ bỏ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào thuộc quyền của Ban Quản trị và Chủ sở hữu; và tố cáo với cơ quan chức năng hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm nêu trên.