Bài kinh Vesāli Thiên Tai, Dịch Hoạ

Một thời Đức Phật an cư ở tại Tinh xá Trúc Lâm cùng với đại chúng Tỳ Kheo. Bấy giờ, qua tháng thứ hai an cư, tại tiểu bang Licchavī đã xảy ra một biến cố. Chuyện là, miền Nam sông Gaṅgā trời đổ mưa liên tục từ ngày này sang ngày khác; nhưng suốt bốn năm tháng nay, phía Bắc lại không có một giọt mưa. Thế là một thảm họa đổ xuống các tiểu bang ở đây, nhất là kinh thành Vesāli: Đất đai nứt nẻ, đồng ruộng, nương vườn khô cháy; mùa màng thất bát, lúa gạo dự trữ không đủ sức cầm hơi, rau cỏ không có mà ăn. Thế là đói khát trầm trọng xảy ra. Đó là nạn thứ nhất.

Vì đói nên người chết rất nhiều, người sống không còn đủ sức mang xác ra nghĩa địa hoặc hỏa thiêu; họ đành phải quăng xác ra ngoại thành, mùi hôi thối tỏa khắp mọi nơi. Ác dạ-xoa lộng hành quậy phá làm khổ dân chúng. Đó là nạn thứ hai.

Vì xác chết, vì hôi thối nên dịch bệnh lan tràn; nhất là bệnh đường ruột, bệnh bao tử , bệnh dịch tả càng làm cho người chết nhiều thêm nữa. Đó là nạn thứ ba!

Các đức vua và hội đồng tướng lĩnh các tiểu bang cộng hòa cấp tốc hội họp, đề cử một viên đại thần, tên là Mahāli – vốn là thân hữu của đức vua Bình Sa – làm trưởng đoàn sứ giả, mang lễ phẩm trọng hậu đến Rājagaha, nhờ đức vua giúp đỡ, trình lên Đức Phật, mong Ngài đến tiểu bang Licchavī, kinh thành Vesāli để cứu khổ cho muôn dân. Đức vua không dám nhận hậu tình, bảo rằng đoàn sứ giả nên đến đảnh lễ Đức Phật, dâng lễ phẩm và tường trình mọi sự lên Ngài, hiện Ngài đang an cư ở Tinh xá Trúc Lâm với đại chúng Tỳ-kheo.

Tôn giả Mục Kiền Liên đứng một bên, sau khi nghe viên đại thần Mahāli trình bày ba thảm nạn tại Vesāli, tôn giả liền khẩn cầu Đức Phật giải họa.

Đức Phật đã sớm biết chuyện này, Ngài nói:
- Các ông hãy về đi! Như Lai và hội chúng năm trăm Tỳ-kheo sẽ đến Vesāli trong mấy hôm nữa.

Lúc phái đoàn sứ giả ra về rồi, Đức Phật nói chuyện với vị đại đệ tử:
- Này Mục Kiền Liên! Ba thảm nạn của Vesāli xảy ra là do ba nguyên nhân tương tác lẫn nhau: Thứ nhất là do nắng nóng khô hạn, thứ hai là do ác pháp phát sanh từ các người lãnh đạo, thứ ba là do chư thiên, thiện thần, thiện dạ-xoa bỏ đi. Bây giờ, ông hãy gọi A Nan Đà đến đây.

Sau khi có mặt cả hai vị, Đức Phật nói:
- A Nan Đà có trí nhớ rất tốt, vậy phải học bài kinh uy lực của Tam Bảo mà Như Lai sẽ đọc sau đây, nó có tên là Ratanasutta; sau khi thuộc rồi, ông hãy lựa chọn mấy trăm vị Tỳ-kheo còn trẻ, trí nhớ tốt, tức tốc dạy cho họ học thuộc bài kinh ấy. Còn Mục Kiền Liên thì vào hoàng cung, gặp đức vua Bình Sa, nói với nhà vua nên hỗ trợ cho Vesāli trong lúc đói kém, khoảng chừng một ngàn xe lương thực; và đức vua cũng nên cử quan đại thần và quân đội đích thân vận chuyển; chuẩn bị xong lúc nào là lên đường ngay lúc ấy; cứu đói như cứu lửa – phước báu sẽ rất lớn; và nhờ thế, tâm đức của đức vua sẽ sáng chói và lan rộng khắp cả châu Diêm-phù-đề. Cũng xin với đức vua là cho thầy thuốc Jīvaka, các trợ lý lương y, nhân viên cùng thuốc men đến để trị bệnh.

Đại đức A Nan Đà làm trọn phận sự của mình, có năm trăm Tỳ-kheo cùng học thuộc lòng. Còn đức vua Bình Sa thì sẵn sàng hoan hỷ làm theo lời Đức Phật dạy; và còn hơn thế nữa, do mùa màng đất nước này bội thu, nên nhà vua đã trợ cấp hào sảng hai ngàn xe lương thực để cứu đói. Lại còn rộng lượng cho vay thêm một ngàn tấn lương thực nữa, thời gian trả, không hạn định; lúc nào mùa màng bội thu, phú túc sẽ trả sau.

Thế rồi, Đức Phật cùng mấy chục vị trưởng lão, năm trăm Tỳ-kheo và phái đoàn cứu tế rầm rộ lên đường. Bảy ngày sau, đến sông Gaṅgā, tại thị trấn Pāṭaligama, đức vua đã cho chuẩn bị sẵn năm mươi chiếc thuyền lớn để chở phái đoàn và lương thực. Đang mùa mưa nên nước cuồn cuộn tràn bờ, nhờ thuyền lớn nên xuôi dòng nhẹ nhàng; đến ngã ba sông, đoàn thuyền bỏ sông Gaṅgā, theo nhánh sông Gaṇdak tiến lên phương bắc. Hai bên bờ, đồng khô cỏ cháy trông thật tang thương. Càng đến gần Vesāli chừng nào thì thuyền đi càng chậm vì sông cạn, lại lềnh bềnh tử thi và rác rưởi. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Ròng rã ba ngày, đoàn thuyền khá gian lao, vất vả mới đến được bến nước giang khẩu vào kinh thành Vesāli.

Khi Đức Phật vừa đặt chân lên bờ đông nước cộng hòa Licchavī thì một trận mưa rất lớn, tối trời tối đất như tự cổng trời mở ra, xối xả đổ xuống vùng đất đại hạn như đã chờ đợi từ lâu lắm.Trận mưa lớn kéo dài nửa ngày, bao nhiêu xú uế tan mất. Nhân dân khắp nơi tràn ra đường, vui mừng hò reo, hát ca, nhảy múa… Các đức vua, hội đồng tướng lĩnh, quý tộc đến sụp lạy bên chân Đức Phật, nghẹn ngào tri ân, chảy nước mắt, không nói được nên lời. Đức Phật, phái đoàn và ba ngàn xe lương thực vào thành. Dân chúng quỳ lạy hai bên đường…

Tôn giả Mục Kiền Liên nhanh trí hướng dẫn quan đại thần của đức vua Bình Sa đến bàn tính ngay với giới cấp lãnh đạo kinh thành Vesāli, làm gấp ba việc: Phân phối lương thực, bố trí ngay chừng hai mươi địa điểm, do chiến sĩ phụ trách để cứu đói rộng rãi cho dân chúng. Nhóm chiến sĩ khác cùng với thanh niên tình nguyện rải khắp các nơi, chôn lấp hoặc thiêu đốt tất cả tử thi còn lại. Bố trí một quảng trường và những dãy nhà có mái che, có sạp nằm để phái đoàn lương y do quan trưởng ngự y Jīvaka dẫn đạo, chữa bệnh cho nhân dân. Thanh niên Saccaka thấy Đức Phật như một vị cứu tinh trên trời hiện xuống, cứu giúp muôn dân, nên huy động cả ngàn con em quý tộc tham gia hăng hái việc này việc kia chung với phái đoàn cứu tế.

Đêm xuống, dưới ánh đuốc chập chờn, đại đức A Nan Đà dẫn đầu năm trăm Tỳ-kheo đi quanh thành Vesāli ba vòng, tụng bài kinh Ratanasutta suốt đêm không ngủ. Lời kinh vang lên rằng:

Xin thỉnh chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đỉnh núi, núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; chư Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ, hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời này là kim ngôn cao thượng của Ðức CÙ ĐÀM mà chúng tôi tụng đây.

Xin các bậc hiền triết hãy lắng nghe lời này. (3 lần)

Phàm chúng thiên nhân nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sinh lòng hoan hỷ
Chính tâm và thành ý
Lắng nghe lời dạy này:
Tất cả chúng thiên nhân
Hãy bi mẫn đồng tâm
Lòng từ luôn rộng mở
Năng chuyên cần gia hộ
Đối với nữ nam nào
Ngày đêm thường bố thí.

Phàm những tài sản gì
Đời này hoặc đời sau
Ngọc báu hay trân châu
Có cùng khắp thiên giới
Nhưng chẳng gì sánh nổi
Đức Thiện Thệ Như Lai
Chính Phật Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Ly dục, diệt phiền não
Pháp diệu thù bất tử
Phật Thích – ca Mâu-ni
Đắc Tịch tịnh, Vô vi
Trong Thiền, chứng ngộ Pháp
Chẳng pháp nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Bậc Vô thượng Chính Giác
Hằng ca ngợi Pháp Thiền
Trong sạch, không gián đoạn
Chẳng Thiền nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Thánh bốn đôi, tám vị
Bậc thiện hằng tán dương
Đệ tử đấng Thiện Thệ
Xứng đáng được cúng dường
Bố thí các vị ấy
Được kết quả vô lượng
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Các Ngài tâm kiên cố
Ly dục sống Thánh Đạo
Khéo chân chính thiện hành
Lời Phật Gotama
Chứng đạt được quả vị
Thể nhập đạo Bất Tử
Hưởng tịch tịnh dễ dàng
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Ví như cột trụ đá
Khéo y tựa lòng đất
Dầu gió bão bốn phương
Chẳng thể nào lay động
Ta nói bậc Chân Nhân
Liễu ngộ Tứ thánh đế
Cũng tự tại, bất động
Trước Tám pháp thế gian
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Bậc Thánh Tu-đà-hoàn
Thấy rõ lý Tứ đế
Mà đức Chuyển Pháp Vương
Có trí tuệ thậm thâm
Đã khéo giảng, khéo dạy
Các Ngài dù phóng dật
Cũng chẳng thể tái sinh
Nhiều hơn trong bảy kiếp
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Nhờ vững chắc chính kiến
Nhờ kiên cố chính tri
Đoạn lìa ba trói buộc
Là Thân kiến, Hoài nghi
Luôn cả Giới cấm thủ
Ra khỏi bốn đọa xứ
Không tạo sáu trọng nghiệp
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Bậc Thánh Tu-đà-hoàn
Dẫu vô tâm phạm lỗi
Bằng ý, lời hay thân
Chẳng bao giờ khuất lấp
Bởi vì đức tính này
Được gọi là “thấy Pháp”
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Ví như cây trong rừng
Đâm chồi đầu mùa hạ
Cũng vậy, đức Thế Tôn
Thuyết giảng pháp Siêu việt
Pháp đưa đến Niết-bàn
Tối thượng, vô năng thắng
Chính Phật Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Đức Phật – bậc Vô thượng
Liễu thông pháp Vô thượng
Ban bố pháp Vô thượng
Chuyển đạt pháp Vô thượng
Chính Phật Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Nghiệp cũ đã chấm dứt
Nghiệp mới không tạo nên
Nhàm chán kiếp lai sinh
Chủng tử dục diệt tận
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng Niết-bàn
Chính Tăng Bảo như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chân hạnh phúc.

Phàm chúng thiên nhân nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Xin đồng tâm hoan hỷ
Thành kính đỉnh lễ Phật
Đã như thật xuất hiện
Mà chư thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với hạnh lành này
Được sống chân hạnh phúc.

Phàm chúng thiên nhân nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Xin đồng tâm hoan hỷ
Thành kính đỉnh lễ Pháp
Đã như thật xuất hiện
Mà chư Thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với hạnh lành này
Được sống chân hạnh phúc.

Phàm chúng thiên nhân nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Xin đồng tâm hoan hỷ
Thành kính đỉnh lễ Tăng
Đã như thật xuất hiện
Mà chư thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với hạnh lành này
Được sống chân hạnh phúc.

Bài kinh với âm giọng của năm trăm vị Tỳ-kheo đồng cất lên suốt đêm trường, thật là trầm hùng khôn tả. Cả không gian rung rinh, chao đảo. Cả đất trời Vesāli như chìm ngập giữa biển âm thanh thẳm sâu, cao diệu… Chư Thiên vân tập đầy đặc cả không gian, thành kính lắng nghe kinh rồi cất lên lời đại nguyện hộ trì Tam Bảo và hộ trì quốc độ, nếu các đức vua và hội đồng tướng lãnh sống theo chánh Pháp.

Ngày hôm sau, rất nhiều người không hiểu chư Tăng đọc mật chú gì mà có uy lực kinh khiếp như vậy? Nó làm cho toàn bộ nhân dân kinh thành phải kính cẩn lắng nghe, tất thảy lo âu, sợ hãi đều tiêu tan, không những trong lòng người mà cả không gian xung quanh cũng cảm giác cả một bầu khí thanh bình và an lạc.

Các vị trưởng lão và các vị A-la-hán có trí giải thích:
- Chẳng phải là huyền chú, mật chú gì đâu, đấy là bài kinh nói lên uy lực của Tam Bảo. Uy lực ấy lại còn được hội tụ bởi uy lực của năm trăm vị Tỳ Kheo đọc tụng, tạo thành năng lực của tăng thượng tâm, có thể tác động toàn bộ nội tâm và ngoại giới đem đến sự bình yên và mát mẻ cho quốc độ này.

Công việc cứu đói, trị bệnh và vệ sinh tẩy uế các nơi kéo dài hơn cả tuần lễ, đâu đó hoàn mãn. Trong thời gian ấy, khi chư Tăng về nghỉ ở Mahāvana thì Đức Phật thuyết pháp liên tục tại triều đình, hội chúng gồm các đức vua, tướng lĩnh, quý tộc, các quan đại thần, trí thức, nhân sĩ, phú hộ, thương gia. Đức Phật nhấn mạnh về trị quốc an dân, lực lượng võ bị tuy cần thiết nhưng vẫn là thứ yếu; sự thương yêu, đoàn kết để sống trong thiện Pháp mới là yếu tố quyết định. Đức Phật triển khai một số thời Pháp liên hệ đến chư thiên, phi nhân ở trong thế giới xung quanh, phải sống làm sao để họ cùng hoan hỷ.

Thấm đẫm về hương vị của chánh Pháp và thấy rõ oai lực của Đức Phật, của hội chúng giáo đoàn đã hóa giải tức khắc ba thảm nạn; họ xin quy giáo rất nhiều và hứa cải cách việc bầu cử chọn lựa các vị vua đức độ, các quý tộc võ tướng hiền tài điều hành và lãnh đạo các nơi...

Từ đó về sau, các nước này bắt đầu thịnh cường, yên ổn trở lại. Các quý tộc Licchavī bắt đầu sống đời giản dị, khiêm tốn, thương dân như anh em. Các vị tướng trẻ không còn hống hách, ăn chơi, ngã mạn, đôi khi họ chỉ ngủ trên nệm cỏ, với vũ khí sẵn sàng bên người, có thể vùng dậy bất cứ lúc nào để chăm lo an ninh cho nhân dân.

Đức Phật ở lại Vesāli nửa tháng thì dân chúng đã hùn góp, chung tay, chung lực làm xong một công trình lớn: Ngôi Nhà Nóc Nhọn tại Mahāvana để cúng dường lên thập phương Tăng. Hội đồng tướng lãnh, nhân dân và cư sĩ hai hàng thỉnh nguyện đức “Cứu-khổ-cứu-nạn” ở lại; thế nhưng, khi thấy tình hình đã trở nên sáng sủa, tốt đẹp, Đức Phật và hội chúng từ giã, trở lại Rājagaha…

Các vị trưởng lão đồng khởi lên một ý nghĩ giống nhau rằng: “Cuộc chuyển hóa của đức Tôn Sư thật là vĩ đại.”

-
aa
+
1,632 lượt xem
02/10/2020

Bình luận

Phản hồi cho Hủy bỏ